Vỏ trái đất là lớp ngoài cùng, là nơi sinh sống của con người và các sinh vật khác. Vỏ trái đất có độ dày khoảng 50 - 70 km, chiếm 15% thể tích và 1% khối lượng trái đất. Càng vào sâu trong vỏ trái đất, nhiệt độ càng cao, nhiệt độ cao nhất lên tới (1000 ^ {o} C ) (chú thích: 1000oC)
Gấu mẹ vĩ đại. Phim cao bồi miền Tây thì có đủ giòng, đủ kiểu. Kiểu Mỹ với John Wayne hào hùng (hay ít ra là thời kỳ đầu), kiểu Ý với những Django, Ringo, thô bạo không tô vẽ (đúng ra là có vẻ hơi tô đen), kiểu khôi hài với Bud Spencer-Terence Hill, kiểu hậu hiện đại
Cách nhiệt trần nhà hiệu quả với tấm thạch cao Vĩnh Tường. 2. Tấm cách nhiệt chống nóng tường nhà. Không chỉ trần, tường nhà đẹp cũng là nơi có bề mặt tiếp xúc nhiệt độ ngoài trời cao. Tường nhà thường xây bằng gạch, kính chịu lực hoặc các loại vật liệu
Hành tinh mang ký hiệu khoa học GJ1214b vừa được phát hiện, có nhiều đặc điểm giống Trái Đất và chỉ cách Hệ Mặt Trời 40 năm ánh sáng, một khoảng cách được coi là "khá ngắn" trong các khái niệm vũ trụ. Theo các nhà thiên văn học châu Âu tại Đài quan sát phía Nam (ESO), đặt tại La Silla, Chile, cùng các nhà quan
Lớp vỏ Trái Đất có độ dày? Bức xạ Mặt Trời trong quá trình tới bề mặt Trái Đất được phân chia thành nhiều bộ phận, chiểm tỉ lệ lớn nhất là; Khu vực chịu ảnh hưởng của gió mùa thường có lượng mưa lớn vì? Gió biển và gió đất là loại gió
. Trời cao đất rộng thênh thang Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng, Cá tươi gạo trắng nước trong, Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê.
8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Ở chân đây, viên đạn nó nằm nơi hông,không hiểu sao nó lại lọt vào trong khớp xương mà không chịu ra ngoài… - Tôi biết rồi, tôi muốn hỏi ông bị thương ở mặt trận nào ? - À, Khe Gió. - Cái tên nghe hay qua, Khe Gió. Cô gái nhắc lại hai tiếng Khe Gió với vẻ hài lòng, cô với tay cầm lấy trái cam nơi mặt bàn và cầm lấy con dao nhỏ gọt vỏ vẻ nhẹ nhàng khéo léo, đôi mắt nhìn xuống trái cam chăm chú - Anh tôi ở ngoài quân y viện đó đã hai năm, mới về phép được một lần, anh tôi ít chịu viết thư, thường anh ấy chỉ nhắn miệng hoặc gửi thư tay, lâu lâu anh ấy ghé bưu điện đánh điện tín về nhà với vài chữ vắn tắt vẫn mạnh khỏe,, hỏi thăm, đã được thư… Anh tôi lười viết thư lắm… Lần đầu tôi nhận được thư của anh ấy dài được nửa trang giấy. Thật vui. Tôi còn cơ hội gặp ông. Khe Gió, chắc anh tôi biết chỗ đó, gần nơi anh tôi phải không ? - Khe Gió xa, có lẽ anh cô chưa tới đó, nó ở gần biên giới Ai-lao, nơi thượng nguồn của sông Ô Lâu, xa lắm, ít ai lên đó, chỉ có bọn tôi đi hành quân, nơi đó núi non hùng vĩ, nước độc và pháo kích không kể ngày đêm, mưa xuống thì bốn bề mênh mông như giữa đại dương, có lẽ chẳng bao giờ tôi còn trở lại đó nữa… Cô gái lắng nghe chăm chú, cô bóc từng múi cam đưa sang tôi vẻ tự nhiên thân thuộc, tôi nói cám ơn và ăn từng múi cam từ tay cô đưa sang, tôi mới cô cùng ăn nhưng cô nói không thích ăn cam. Lúc sau cô gái mở ví ra lấy một gói ô mai đưa mời tôi và tự nhiên lấy ăn, cô nói của bạn, tôi cười nói của người vị hôn phu phải không. Cô gái mỉm cười gật đầu vẻ ngượng ngùng, tôi nói cám ơn cô tôi không thích của chua, tôi cũng có người vợ chưa cưới thích ô mai, thích mặc áo lụa. - Ông ta lại đỏ mặt và đang múa may kìa. Giọng cô gái chợt như hốt hoảng, tôi nhìn người đàn ông, ông ta đang có vẻ cuống quít với chính mình, ông ta ôm lấy mặt và gục đầu xuống hai đầu gối vẻ tội nghiệp. Cô gái ngồi lặng thinh nhìn xuống, cô với tay cầm lấy chiếc máy thu thanh nhỏ nơi đầu giường tôi và, tiếng hát vọng lên, em đến thăm anh một chiều mưa… cô gái ngồi im như lắng nghe, mắt nhìn ra ngoài sân nắng, cô gái nói - Ông có thích giọng ca Thái Thanh không ? 51/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Tôi mê giọng hát đó hai mươi năm rồi mà tiếng hát vẫn chưa già, từ những năm đầu trung học cho tới nay, đã già rồi mà tôi vẫn mê Thái Thanh, thật là tuyệt diệu… - Ông mới độ hơn ba mươi, đã già gì, tôi cũng mê tiếng hát ấy. Cô gái nhìn tôi vẻ thân thiết - Hôm nào lành ông rủ cô bạn đến tôi chơi… - Cô bạn tôi cũng mê Thái Thanh… Cô gái ngồi im, tôi nhìn ra khoảng sân nắng. - Tôi thích nghe hát, không thích xem hát, tôi chỉ thích nghe một mình… Tôi nói với cô gái câu chuyện đã cũ, đó là câu chuyện hồi cách đây hơn một năm, tôi đã cùng một người bạn lớn tuổi ghé lại Đêm Màu Hồng có Thái Thanh hát. Buổi chiều tôi ra phố một mình và gặp anh Nguyễn ngoài phố, anh cũng đi một mình, đó là thời gian anh Nguyễn sắp lập gia đình. Anh rủ tôi đi nghe nhạc, chúng tôi ngồi trong phòng sớm hơn mọi người, mỗi chúng tôi kêu một ly trà nóng, với gian phòng ấm cúng, ánh đèn đỏ và mờ, khoảng cách giữa những người ngồi nghe và những người đứng trên bục gỗ không xa cách nhau bao nhiêu, có thể nói đây là một khung cảnh, một không khí thân mật. Được nghe Thái Thanh hát, tôi nghĩ, với người nghe là môt hạnh phúc, đó là tiếng hát bắt được của trời đất,chừng như nó khơi nguồn từ những mạch nước tinh khôi trong suốt và thanh thoát… Cách đây gần hai mươi năm khi đang học những năm đầu bậc trung học Hà-nội tôi đã có lần được nhìn và nghe Thái Thanh hát trong rạp Bắc Đô Hà-nội nơi gần với nhà tôi ở. Từ bấy đến nay tiếng hát Thái Thanh vẫn không thay đổi, tiếng hát ấy vẫn tiếng hát từ một cõi nào, tiếng hát làm não lòng người trong nỗi thanh thoát. Nhưng đến khi tôi thấy Thái Thanh cùng với những người anh cất tiếng với những bài hát thời trang, với dáng vẻ nhún nhẩy làm duyên cho thích hợp với thời đại thì tôi không muốn nhìn lên phía tiếng hát phát ra, một cảm giác nhột nhạt chạy khắp cơ thể. Tôi nói với anh Nguyễn nỗi ngậm ngùi của mình. Tiếng hát đó đâu đáng để hát lên từ một phòng trà như thế này, tôi nghĩ tới một thính đường quốc gia với hàng vạn con dân ngồi im lắng nghe tiếng hát Thái Thanh cất lên. Tôi nghĩ thế. Nhưng có lẽ với Thái Thanh điều đó đâu đáng quan tâm, với người tài tử đó có lẽ chỉ có cất tiếng hát cho người nghe là cần thiết, nào có kể tới nơi tới chốn… những người khóc lẻ loi một mình - Tôi thấy buồn khi nghĩ đến cảnh một người nghệ sĩ khi về già mà vẫn phải trình diễn. Cô có nghĩ đến lúc Thái Thanh sáu mươi tuổi mà còn bước 52/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày lên bục gỗ một phòng trà không? Cô gái cười thành tiếng - Tôi nghe tiến hát chứ không coi hát. Các con của Thái Thanh thật sung sướng nhỉ, tha hồ nghe mẹ hát, mẹ tôi nói bà tôi ru cháu rất hay đến thời tôi, tôi không còn được nghe hát ru. - Tôi thuộc ca dao nhờ bà ngoại và mẹ tôi. - Ông hạnh phúc hơn chúng tôi, chúng tôi chẳng còn được nghe hát ru. Tôi cười thành tiếng - Cô có biết khiêu vũ không ? Cô gái ngượng ngùng, cô nói nhanh như khỏa lấp - Không, tôi không có cả áo đầm, tôi thích áo lụa trắng nên phải giữ cho mình khỏi mập. Không khí trong phòng im lặng môt cách dễ chịu, một vài bệnh nhân rời khỏi phòng ra đi dạo ngoài sân cỏ, có những người được dìu bởi những người thân, có người ngồi trên giường co chân co tay tập cử động cho bình thường trở lại. Cô gái nói - Cái chân ông bao giờ thì có thể lành ? - Bác sĩ nói với tôi là sáu tháng. - Sáu tháng… Cô gái hơi rụt cổ lại, đôi mày hơi nhíu vẻ nghịch ngợm trẻ thơ, hai tay giữ lấy chiếc ví trong lòng với dáng ngồi của một thiếu nữ còn nhiều e dè và chưa quen với sinh hoạt của giao thiệp, tôi hình dung tới không khí gia đình của cô bé, một gia đình trung lưu và nếp sống thu kín nhẹ nhàng. - Sáu tháng ông phải nằm trên giường, thấy sợ quá. - Đâu đến nỗi thế – tôi cười. – Hôm qua, bác sĩ đã lôi tôi xuống khỏi giường bắt bước đi, tôi suýt nữa ngã vì đau… - Trời ơi, bác sĩ gì kỳ vậy. - Ông ấy thử. 53/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Cô gái nhìn cái chân tôi trắng toát, bó bột suốt từ dưới lên tới trên bỏ ngay đơ trên giường. - Ông có chân của một người khổng lồ, có chân ai lớn và trắng như thế này không nhỉ, một người như vậy mà đi chơi với mình thì chỉ có nước chạy. Một người khổng lồ, ông thích không ? - Không, có một cái chân khổng lồ đã mệt rồi, có một người khổng lồ thì… thì… Tôi bỏ dở câu nói. Tôi chợt nhớ đến một chuyện thương tâm, đó là câu chuyện đã được diễn tả trên màn ảnh, một người bị thương trầm trọng, tất cả người bị băng, nằm dài trên chiếc giường, anh ta đã nhờ một người bạn hạ mũi nhọn của lưỡi tê xuống trúng tim. Mẩu đối thoại chậm chạp, bàn tay sờ lên ngực và cái chết… tôi rùng mình. Chính ở trong bệnh viện này, ngày tôi vừa vào, tôi cũng thấy một cảnh thương tâm, một người cụt hẳn hai chân và một tay, còn lại một tay thì cụt mất bàn tay chỉ còn lại như que củi, trông con người ấy ngồi trên giường quờ quạng mẩu tay cụt còn lại tôi ngậm ngùi… - Ông nghĩ gì vậy ? Tôi mỉm cười nói không và lặng đi. Cô gái nói những chuyện bình thường trong đời sống của cô, lúc sau cô đứng lên và chào tôi để trở về. Tôi nói - Khi lành bệnh và xuất viện tôi sẽ ghé thăm cô, chắc không phiền. - Tôi mong lắm. ông nhớ dẫn cô bạn gái lại nghe. Tiếng nghe sau câu nói được kéo dài và ngọt ngào lạ. Cô gái mỉm cười đi ra khỏi phòng. Tôi nhìn theo cho đến khi cô gái khuất ngoài cửa. Tôi quay nhìn ra ngoài sân cỏ, nắng lên đầy ở ngoài đó, tôi để nguyên cuốn sách úp trên ngực, đôi mắt nhìn chiếc quạt trần quay chậm chạp trên mặt, buổi trưa nóng chừng như đã bắt đầu. Một phần băng bột nơi chân đã cược cắt đi, tôi bắt đầu lần hai bên thành giường tập đi như đứa trẻ qua giai đoạn biết bò và đứng lên được. Tôi mải miết với công việc tập đi hằng ngày cho tới khi mệt thì lên giường. Buổi chiều khi tôi đang tập đi thì có cảm tưởng như có một người nào đó đang đứng ngó mình phía sau lưng, tôi lần ra phía cuối chân giường và sang tới phía bên kia. Tôi nhận ra cô gái đang đứng mãi ở tận ngoài cửa. Mái tóc buộc lơi, áo lụa màu hoa lý nhạt, cô gái mỉm cười đi về phía tôi như một người vội vàng, tôi đứng im. - Ông khá rồi hả, đi được rồi, tôi tưởng còn lâu. 54/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Cô gái đến bên và nói không cho tôi kịp tỏ dấu chào. Tôi ngồi lên giường và cười với cô như một lời chào và cảm ơn. Không đợi tôi nói cô kéo vạt áo rồi ngồi xuống chiếc ghế để phía ngoài - Tôi được thư của anh tôi, anh tôi sắp về, độ bao giờ thì ông xuất viện. - Có lẽ ít ngày nữa. - Thế cô bạn của ông có lên thăm không, hôm nay chủ nhật mà, tôi tưởng ghé hôm nay thì gặp cô bạn của ông. - Có, tại cô ghé trễ quá, cô bạn tôi bận về vì ở xa. Cô gái mắt mở lớn nhìn tôi, đầu gúc gúc ra ý hài lòng và đùa nghịch. Cô gái mở xắc tay đưa cho tôi gói giấy nhỏ màu hồng - Tôi nghĩ ông nằm một chỗ chắc buồn, ăn ô mai chắc thích, thứ này không có chua đâu, ô mai cam thảo mà. Tôi đón lấy gói giấy, mở ra, tự lấy một trái bỏ vào miệng và đưa gói giấy về phía cô gái. Cô ngần ngại một chút rồi nhón lấy một trái nhỏ cầm ra tay rồi bỏ vào miệng, sau cô lấy chiếc khăn trắng lau nhẹ nơi miệng và ngón tay. Tôi ngạc nhiên và mỉm cười khi tôi nhận thấy nơi tay của cô gái đeo một chiếc nhẫn lớn đối với ngón tay nhỏ búp măng. Cô gái nhận ra cái nhìn của tôi, cô gái cười, đồng thời cô bỏ thẳng bàn tay trên đùi - Ông thấy cái nhẫn có gì lạ không, quà tặng của bạn tôi. Cô gái để bàn tay ngửa lên, tay kia thì mân mê cái nhẫn xoay tròn nghịch ngợm. Cái nhẫn có mặt vuông. Cô gái nói tiếp - Ông thấy đẹp không – cô gái giơ tay về phía trước – người bạn tôi đã tự làm lấy đó, anh ấy kể lại với tôi hồi cách đây hơn bốn năm, khi đang thụ huấn trong quân trường, anh ấy buồn quá, dùng thì giờ mài chiếc nhẫn này, nó là cái vòng cổ của trái lựu đạn, một thứ quà tặng của chiến tranh, anh ấy nói khi mài nó anh nghĩ tới khi cưới vợ, chắc đây là cái nhẫn duy nhất có được trên trái đất… - Cô có thích không ? Cô gái mỉm cười - Thích lắm. - Tôi không phân biệt được thế nào thứ thiệt thứ giả, tôi chưa rõ thế nào là vàng, là kim cương. Xưa kia mẹ tôi có đánh cho tôi một cái khánh 55/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày bạc, khi chiến tranh thì thất lạc, cái khánh đeo trước ngực khi còn để đầu trái đào, cô biết không ? Thứ ấy ngày nay không ai còn đeo nữa, thời xưa rồi. - Người bạn tôi có mặc cảm nhà nghèo, anh ấy có vẻ giống ông, vàng, kim cương tôi cũng không biết gì cả, có người khổ sở với nó… - Tôi không có một bảo vật nào, cuộc sống của tôi cũng không có gì là kỷ niệm, cô có người bạn dễ thương nhỉ. Bạn cô đã thất tình bao giờ chưa. Cô gái ngừng lại một chút, tay mân mê chiếc nhẫn, mặt hơi cúi. - Có, anh ấy nói, anh ấy cũng kể cho tôi nghe nữa, bạn tôi lắm khi cay đắng, tôi thương anh ấy, tôi nghĩ chẳng ai muốn như thế, anh ấy như một người lơ đễnh với đời. Anh ấy bảo tôi đời sống không cho phép mơ mộng, ông có nghĩ vậy không ? - Làm sao để người ta không mơ mộng ? Cô gái ngồi im, lúc sau cô lục lọi trong xắc tay lấy ra một cái ống nhôm như một thứ ống kem tí hon, cô gái giơ lên - Ông có biết gì không ? - Không, gì mà lạ vậy. - Xưa kia ông có bao giờ thổi bọt sà phòng không ? - Có, hồi nhỏ, trò chơi cũng vui nhỉ, một cọng cỏ thẳng, có lúc quên thổi ra lại hút vào… Cô gái chăm chú mở chiếc ống nhỏ, bóp thuốc, một chút nhựa đỏ chảy ra, cô gái lấy chiếc ống quệt lên đầu ống nhựa rồi nhẹ nhàng đưa lên miệng chăm chú thổi nhè nhẹ, một trái bóng màu xuất hiện và lớn dần, nó có hình như những bong bóng sà phòng thời nhỏ, màu sắc kỳ diệu, có điều nó lớn hơn và nó không tan ngay. Cô gái để nguyên trái bóng rực rỡ nơi đầu ống nhựa, cô dùng tay nhỏ khéo léo làm trái bóng tách ra khỏi đầu ống rồi thả ra khoảng không, trái bóng lờ đờ ngang mặt rồi sà xuống dưới đất, tôi trông chờ nó vỡ nhưng nó đứng im một chỗ. - Đẹp không, người ta bán nhiều màu lắm, ông thích thổi không ? Không chờ tôi trả lời, cô gái đưa cho tôi ống nhựa hỏ và ống thuốc. Tôi cầm lấy làm theo cô gái, nhưng ngay khi thổi, một tiếng nổ nhỏ vang lên, chiếc bóng vỡ từ ngay khi vừa nhú ra. Cô gái cười, tiếng cười giòn tan. Tôi thấy mùi thuốc thơm một cách khó chịu, chút nhựa dính ra tay cạ khôn 56/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày ghết. Tôi nhớ tới mùi thơm nhẹ nhàng của ống cỏ và vẻ lun glinh của bong bóng sà phòng khi thoát ra bay lên và vỡ tan không để lại dấu vết. Tôi nhìn cuống trái bóng màu còn là là nơi mặt đất, nó đã tóp lại với một hình thù xấu xí. Tôi đưa trả đồ chơi cho cô gái - Tôi mơ mộng hơn tôi tưởng. Tôi mỉm cười, cô gái nói - Hôm rồi ngồi trong lớp học các bạn tôi đã thổi những trái bóng này trong lớp, nhưng chơi lâu rồi chán. Ông thích không ? - Không. Tôi có nhớ tới bài thơ của Tagore, bài thơ là một truyện kể, một người gặp người ăn xin ngồi bên vệ đường chìa tay ra xin, một kẻ đi qua có túi ngô trên vai đã cho người ăn xin một hột ngô, khi về nhà bỏ ngô ra thấy có một hột ngô bằng vàng… kẻ đó nhớ lại chuyện thấn thoại, ông tiên thành người ăn mày và trả công bằng vàng cho người bố thí, kẻ đó ân hận sao không đổ cho người ăn mày kia cả túi ngô… Lúc nhỏ tôi cũng mong những người ăn xin biến thành bà tiên, nay nghĩ lại, nếu bà tiên hiện ra thật có lẽ mình sẽ thất vọng… - Tôi vẫn mong một bà tiên. Tôi bỏ chân xuống đất và vịn theo thành giường bước đi. Cô gái nói - Ông có thích ra ngoài một chút không ? Cô gái với cho tôi chiếc nạng, giữ tay cho tôi thăng bằng và giúp tôi ra ngoài sân cỏ, buổi chiều đang cuống, tiếng cô gái hát nhỏ bài Ngày trở về của Phạm Duy Ngày trở về có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ… - Người bạn tôi trẻ con hơn ông, anh ấy nhút nhát và có những lúc buồn bất chợt, tôi trông cho tới lúc tôi trưởng thành thì anh ấy cũng đã ra khỏi quân ngũ, không còn chiến tranh, ông có mong vậy không ? - Tôi đang trông mong điều đó. Tôi thấy lòng mình trùng xuống ngậm ngùi. Bao giờ cho tàn cuộc chiến… Chúng tôi đi một quãng ngắn trên sân cỏ rồi đến ngồi nơi băng ghế bất chợt nhìn thấy nơi cuối sân một cô bé cột tóc ngắn, dáng nhỏ bước đi tung tăng, tôi nhớ tới hình ảnh người vợ sắp cưới ngày đầu tiên đã gặp, khu vườn cây xanh, chiếc áo thảm cỏ hoa, tiếng cười nhẹ… 11-1970 57/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Một nơi có người 1 Tiếng động khô vang lên, trái bã đậu vỡ tung trên mặt bàn gỗ, mấy khía bắn xuống nền gạch nâu cũ mỗi khía một ngả, trên mặt bàn còn hai khía dính lại với nhau nằm trơ trọi bên cạnh chiếc ly trắng nhỏ và xị đế đã vơi hai phần ba cầm lấy hai khía trái bã đậu, vỏ ngoài khía bã đậu màu gỗ hơi nhám, phía trong đen láng bóng, một đầu lớn một đầu nhỏ uốn cong. Sau khi đốt cháy hai cạnh sắc bọn trẻ gài lên hai lỗ mũi làm thành một bộ râu mép ngỗ ngược để đóng một nhân vật dữ tợn nhưng có vẻ khôi hài nào đó. Bộ râu biến đứa trẻ thành một người già. Có đứa la lên ta là ông già vợ của mày. Có đứa lấy giọng lụ khụ ta là Trần Minh khố chuối đây. Ta là ...Tư mỉm cười với những hình ảnh hiện ra trong trí nhớ... Tư cầm xị rượu dơ lên cao nhìn áng chừng ngấn nước, rồi lắc cho sủi bọt trươc khi giót đầy chiếc ly để trên mặt bàn. Để chai rươu xuống, Tư cầm lấy chiếc ly đưa lên môi ngửa cổ hớp cạn ...Hơi sương đục ở bên kia sông làm mờ nhạt những lùm cây xanh. Buổi chiều đang xuống chậm. Tư cầm lên tay hai khía của trái bã đậu liệng ra phía có đàn chim đang nhảy lên nhảy xuống nơi đống cỏ khô. Đàn chim hốt hoảng bay túa lên và mất hút. Nhìn ra phía ngã ba sông, con đường đất như một cái hầm được làm bởi hai hàng cây bã đậu với lá đầy kín chụm lại với nhau. Trong bóng tối của vòm cây tưởng như trên mặt đường sương bắt đầu đọng lại, những thân cây nhỏ lẩn vào vách nhà, những hàng rào thưa và những mái nhà thấp lợp lá, lợp tôn chen lẫn vào nhau. Tiếng một mái chèo khua động trên mặt nước, tiếng một người nào đó như vang lên từ bên kia sông. Ánh sáng yếu ớt của buổi chiều để lại những khoảng sáng trên mặt nước. Chừng như ở đó Tư nhận ra những vệt sáng mơ hồ của đàn muỗi đang di chuyển, đó là những con muỗi non với thân mềm nhệu màu xanh non...Tư moi từ trong túi áo ra một điếu thuốc ngậm lên môi rồi thò tay vào trong túi quần tìm hộp quẹt, lần hết túi này sang túi khác vẫn không thấy, đầu điếu thuốc đã ướt nước, Tư cầm điếu thuốc để xuống mặt bàn. Chiếc hộp quẹt đã bỏ đâu rồi trong túi áo trận, trong ba lô, hay đứa nào đó đã cầm? Chắc cái thằng Năm Ngựa, cái thằng chỉ chờ người ta hở ra là chộp. Nó cầm nhưng có ai nhận ra thì hắn trả ngay, miệng cười hề hề tao đâu có lấy, tao giữ hộ, không có tao thì mất rồi, đó là bài học cẩn thận cho bọn mày...Hay là mình đã bỏ ở một nơi nào khác, chưa chừng từ hôm qua ở nhà Lan, hay lúc hái dừa cho bác Thắm...Tư cầm xị đế dốc ngược, rươu tràn miệng ly, Tư vội ngừng lại, cúi xuống hớp cho ly rươu vơi đi rồi giót tiếp chút rượu còn lại. Ông già nói mỗi giọt rượu là một giọt máu của tao, biết không? Chừng như với ông già thì mỗi giọt rượu làm cho ông thêm một giọt máu. Mỗi khi thiếu rượu trông ông thiểu não, da tái nhợt, nói không ra hơi, đi không vững. Ông thường 58/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày nói khi tao chết rồi cúng giỗ chỉ cần xị đế là đủ, không cần cá thịt gì hết, không lẽ giỗ cha mà không kiếm nổi một xị đế. Tợp hết ly rượu Tư đứng lên đặt mạnh chiếc ly xuống bàn, cầm lấy điếu thuốc ngậm lên môi, Tư bước vào trong quán - Tính tiền chị Năm ...cho mồi chút lửa. Chị Năm nhìn lên - Hôm nay ở nhà sao Tư ? - Cháu mới đi kích đêm qua... Tư đưa tiền cho chị Năm, con Son đứng phía trong cầm ra cho Tư chiếc đèn hoa-kỳ. Ngọn lửa nhỏ xanh như hạt đậu đứng im trong chiếc bóng ố vàng rạn nứt. Tư cầm đèn đưa đầu điếu thuốc đang ngậm trên môi vào trong bóng đèn . - Coi chừng tắt nghe. Tư nhíu mắt hít hơi thuốc dài, bỏ ngọn đèn xuống, thở ra một cụm khói trắng đục, vẻ khoan khoái hiện rõ trên mặt. Tư đứng im nhìn con Son cầm ngọn đèn để lên kệ góc quầy hàng, có một khoảng nhỏ ánh sáng vàng vọt. Chị Năm nói vừa đủ nghe - Tư mày có nghe thấy tin gì về thằng So và thằng Trà không, bọn nó còn mắc tiền thuốc. - Không nghe gì hết. - Vậy bọn nó đi đâu? - Ai mà biết ... - Chẳng lẽ mấy đứa dám cả gan mà ... - Sao biết được chị ơi, chết rồi cũng nên, chưa chừng ít bữa nữa xác bọn nó nổi trên mặt sông cho mà xem. Ở đây đi đâu cho thoát được, nếu thoát dễ thì ... - Mấy đồng tiền thuốc có đáng bao nhiêu, đừng nói gở cho bọn nó chứ. Nghe thằng So nói nó còn vợ với mấy đứa con, coi hình thấy mấy đứa nhỏ ngộ lắm ... Tư quay trở ra đi về phía đồn. Qua cây cầu nhỏ Tư nghe có tiếng người gọi và dừng lại. Chợt từ dưới ruộng thằng Ty rẽ bụi cỏ cao đi lên, nó 59/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày nhìn trước nhìn sau vẻ lo lắng. Tư đứng im chờ đợi, thằng Ty cúi mặt không nói. - Chuyện gì đó Ty? - Chị Lan nhắn anh đừng xuống dưới nhà. Thằng Ty đứng im tay bứt những ngọn cỏ cao trong tiếng nói rụt rè như dấu một điều gì đó đã xẩy ra. - Có chuyện gì vậy? Im lặng một lúc Ty mới nói - Anh Hai về hồi đêm. Tư rời mắt nhìn khỏi những váng nước trên mặt ruộng. Thằng Ty nhìn vào mắt Tư vẻ sợ hãi. Thằng Hai về. Khuôn mặt lặng lẽ, nước da ngăm đen, nụ cười kín đáo, tiếng nói nhỏ sắc, đôi mắt ti hí bí mật, dáng người nhanh nhẹn lúc nào cũng như sắp lao về phía trước, lẩn vào trong bóng đêm. Mày muốn lấy em gái tao hả, mày không xứng đáng, mày không còn là thằng Tư bạn tao, mày bây giờ là một thằng khác...Hãy nằm im không có cựa, mày chưa thấy mũi dao nơi cạnh sườn đó sao? Lan cầm ngọn đèn từ nhà trong ra để trên mặt bàn giữa nhà, ngọn đèn vàng tù mù không ai nhìn rõ mặt ai. Giọng thằng Hai khô khan mày muốn lấy con Lan, cũng được, mày muốn vậy thì nghe đây mày phải bảo đảm an toàn cho gia đình tao...Tao muốn đưa mấy đứa vào dân vệ, mày phải bảo vệ cho bọn tao, mày nghe không? Tư vụt vùng dậy, thằng Hai té xuống, Tư xô đổ cái bàn làm tắt ngọn đèn, phóng ra khỏi nhà, vượt qua khoảng sân hẹp, nhảy qua bờ lạch nhỏ, chúi đầu chạy rồi rúc vào một bụi rậm ngồi im nghe ngóng. Không có tiếng động, trời tối đen. Tư ướt sũng ngồi im chờ sáng. Buổi chiều Lan lên ngồi ở quán chị Năm chờ Tư. Tư lặng lẽ, Lan lo âu. Lúc chị Năm vào trong Lan nói em khổ lắm anh ơi. Tư nhìn thấy những giọt nước mắt lăn xuống. Tư thở dài nhìn mông ra cánh đồng trước mặt. Từng ly rượu được giốc cạn, Lan lấy ngón tay út vẽ những vòng tròn nước trên mặt bàn...Tư bước lại gần thằng Ty soa nhẹ tay lên đầu nó. - Nghe rồi, về đi. Tư bước về phía đồn, đi được một quãng khi nhìn lại đã không còn thấy Ty trên con đường đất. Hình ảnh ngôi nhà tranh thấp nhỏ giữa cánh đồng dựa lưng vào vườn chuối với những tàu lá xanh biếc của gia đình Lan hiện ra trong đầu Tư... 2 60/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Chị Năm nhìn ra con đường vắng lạnh đầy bóng tối. Son đứng lên cầm ngọn đèn xuống nhà bếp nhóm lửa nấu bữa cơm tối. Một chút nữa thằng Tố sẽ từ trường học theo con đường ven sông trở về. Chỉ còn con Son, thằng Tố, chị Năm chẳng còn gì nữa. Tang anh Năm đã qua hơn hai năm. Hồi bấy giờ chị đã muốn về dưới quê, nhưng rồi chị đã không về. Người em ở quê được đưa tới bổ xung cho tiểu đoàn nói anh hai đã bỏ quê đi rồi, vứt lại hết nhà cửa ruộng vườn lên làm ăn trên tỉnh vì thằng con lớn bị lùa vào du kích khi chưa được 16 tuổi, mấy tháng sau nhận được tin báo đã chết, không biết ở đâu, vì sao. Thằng con sau mới 12 tuổi bị đạn gẫy chân trong một đêm có giao chiến nơi ven quốc lộ. Ở quê nay còn ai nữa mà về. Chị Năm chẳng còn biết đi đâu ngoài cái quận lỵ nhỏ bé bị cô lập này. Chị theo chồng cùng đơn vị tới đây đã hơn năm năm, chồng tử trận, chị gây dựng cái quán nhỏ bán rượu, tạp hóa và nhận sửa quần áo để có tiền nuôi con. Có một hồi người ta nói chị tằng tịu với một người bạn của chồng nhưng về sau không có gì khác, chị vẫn sống như một cái bóng lầm lũi nuôi hai đứa con. Đi đâu thì cũng phải làm mà sống. Từ khi chị nghĩ thế chị không còn tính tới chuyện về quê hay một nơi nào khác. Một hôm nào đó yên ổn hết không còn bom đạn chị sẽ đi tìm anh Hai để gửi hai đứa con, chồng chị đã không còn, chị muốn trông cậy vào một ngươi có thể thay ba chúng dạy hai đứa nhỏ thành người. Đó là điều mong ước của chị… 3 Không khí trong quán chú Chín ồn ào náo nhiệt hẳn lên khi ba anh dân vệ từ ngoài bước vào, bốn chiếc bàn phía trong không còn chỗ, chiếc bàn ngoài hiên cũng đầy người. Những ly cà phê đen, những tô hủ tiếu, mì bốc khói, những cái đầu cúi xuống. Thằng Ri, con trai lớn của chú Chín, cổ tay vắt cái khăn lau chạy ra chạy vào có khi cả hai tay đều có ly cà phê hoặc tô mì, miệng nó kêu lớn liên hồi nước sôi, nước sôi...Chú Chín mồ hôi nhễ nhại trên cổ, trên ngực, cơ thể luôn chuyển động với những thao tác lập đi lập lại xúc mì, múc nước, bày những miếng thịt đã thái mỏng, bỏ hành...Ba anh dân vệ vào tận trong cùng thì đứng lại đưa mắt nhìn những bàn đầy khách, họ đứng yên một lúc quần áo nhàu nhượi, súng khoác trên vai, lựu đạn móc trễ nơi thắt lưng, vẻ ngái ngủ trên gương mặt mệt mỏi. Thằng Ri chạy tới - Anh Ba...vào trong nhà trong đi, ngoài này hết chỗ rồi.... Ba anh dân vệ quay vào, đi tới, bước qua cửa vào nhà trong. Gian phòng hẹp có kê một cái giường, phía ngoài kê một cái bàn thấp. Ba dân vệ bỏ súng lên cái giường rồi kéo ghế ngồi quanh cái bàn, từ đây họ có thể nhìn thấy trong khoảng sân hẹp con Xinh đang rưởa những cái tô trong một cái chậu nhôm lớn đầy nước. Quán chú Chín có mặt trong phố quận từ hồi nào không còn ai nhớ nữa, có một điều chắc chắn khi rời quận tới đây thì 61/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày đã có quán chú Chín rồi, mới đầu còn vắng, nay đông hẳn. Đó là quán ăn độc nhất nằm ở bên trái của con đường nếu đi từ ngã ba sông để tới quận đường. Bọn nó ra quán chú Chín rồi. Hẹn nhau ở quám chú Chín. Quán chú Chín đã trở thành quen thuộc với người sống ở thị trấn. Chú Chín đã trở thành tên quán, trong khi đó, trên cửa quán, người ta có thể đọc thấy bốn chữ Hồng Ký Trà Gia trên một tấm bảng màu đỏ với nét chữ đen, tất cả đã cũ. Trên tấm bảng có treo một tấm gương soi và một tấm gương vẽ hình bát quái. Bên cạnh có dán mấy tờ giấy đỏ với những chữ Tàu không còn rõ nét trên mặt giấy nhoa nhuếch cũ nát. Đa số khách hàng tới quán, chú Chín đều quen mặt thuộc tên, chú có thể dễ dàng nhận ra một người khách mới. Khi quận lỵ được thiết lập số quân nhân tăng lên đã làm chú khó sử trong một số trường hợp nào ăn chịu, uống thiếu, uống rượu say la lối, gây lộn...với những khách hàng có sẵn súng, dao găm, lựu đạn này thực chú Chín không biết phải làm sao. Có lúc chú Chín đã nghĩ tới đóng cửa hàng, nhưng với lợi nhuận thu được đã giữ chân chú lại. Và từ đó chú cũng tỏ ra khôn khéo hơn trong giao tiếp với khách. Sự cố chú Chín nhớ nhất là vụ thằng Mười Đen. Bữa đó khi từ trong quán bước ra thấy Mười Đen đang ngồi nhậu với đám bạn, chú Chín tới bên bảo nó trả tiền còn thiếu từ tháng trước, Mười Đen mặt đỏ gay đứng lên khỏi ghế la lối, văng tục và bảo chú Chín làm nhục nó trước mặt bạn bè, chú Chín không nhịn, Mười Đen liền rút lựu đạn tung vào trong quán, lựu đạn không nổ vì chưa rút chốt. Chú Chín đi thưa trong quận, Mười Đen bị phạt giam sau đó bị đổi đi đơn vị khác đâu trong giữa rừng tràm. Có mấy người nói nó không phải đứa xấu, nó làm vậy để được đi nơi khác. Mười Đen đi rồi thì một ngươi bạn của nó tới nói thằng Mười nó gửi tôi tiền nó thiếu chú. Sự việc làm chú nghĩ ngợi. Sau đó trong một lần tới quán, ông quận vui vẻ nói với chú Chín chớ cho bọn nó ăn thiếu uống chịu, tôi không đi đòi nợ cho chú được đâu nghe, nhưng đứa nào quậy phá thì cho tôi hay...Ông quận còn trẻ, ông là sỹ quan của tiểu đoàn đóng ở quận. Thỉnh thoảng ông đi bộ trên con phố duy nhất của quận, ghé nhà này, nhà kia...Ông cũng ghé quán chú Chín uống cà phê, ăn hủ tiếu hoặc mì chưa bao giờ thấy ông uống bia rượu bao giờ. Chú Chín nhớ lần đầu ông quận vào quán kêu một ca phê đen, uống xong ông kêu tính tiền, chú Chín không nhận, ông quận nét mặt nghiêm lại chú là cộng sản hả, hay chú hối lộ đây...chú Chín ngượng ngùng nói vội vàng dạ không, dạ không...Từ đó chú Chín coi ông quận chỉ là một người khách đặc biệt, mỗi lần ông quận ghé chú lược một ly ca phê mới, tô hủ tiếu thì nhiều bánh, nhiều thịt hơn. Quán chú Chín mở cửa suốt ngày nhưng buổi sáng bao giờ cũng đông nhất, số khách này kéo dài cho tới khi mặt trời lên cao mới vãn. Còn ngồi lại thường là những người lớn tuổi rảnh rỗi ngồi nhâm nhi ly ca phê nói chuyện gẫu. Trong những lúc đó chú Chín có thể rời xa cái xe có thùng nước lèo của mình ngồi xuống một bàn nào đó góp chuyện tin tức về những trận đánh 62/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày xẩy ra trong vùng, tin về tiểu đoàn cơ động đang mở rộng vùng an ninh, tin tức từ Cà Mâu, trên Sài gòn...Thỉnh thoảng có chuyến tàu thường lệ nối Cà Mâu với thị trấn bị đứt, quán chú Chín không có ca phê và nước đá bán khiến khách hàng chửi đổng và lo âu...Những lần như thế mọi người lại bàn tán xem có phải đang có giao tranh khiến tàu không chạy, hay là du kích ngăn không cho tàu chạy dù chủ tàu đã đóng thuế kháng chiến. Có một lần dân vệ đã xuống nằm trong tàu chờ du kích ra lấy tiền và hàng thì nổ súng. Sau vụ đó tàu hàng liên tiếp bị tấn công và cả những thuyền nhỏ cũng không dám chạy trên con đường thủy huyết mạch đó. Quận lỵ gần như bị cô lập cho mãi tới khi những chuyến hàng được quân đội áp tải. 4 Tối đó không như thường lệ, Tư thấy trong đơn vị không có toán nào đi kích đêm, tất cả được lệnh chuẩn bị hành quân vào sớm mai. Ngay từ đầu đêm đã nghe tiếng trọng pháo hướng về vùng pháo kích tự do ở bên kia sông. Trời hừng sáng Tư và đồng đội đã vượt qua sông khá xa rồi ngừng lại. Trên trời một chiếc trực thăng đang bay là là cùng tiếng loa Đồng bào hãy rời khỏi khu vực này, đây là vùng pháo kích tự do, đồng bào hãy về vùng an ninh, chính phủ sẽ giúp đỡ đồng bào xây dựng cuộc sống mới...Phía trước mặt cánh đồng hoang trải rộng. Mặt trời đã lên cao. Tư kéo đổ khóm cỏ cao xuống và ngồi lên trên, súng vẫn cầm tay hướng về phía trước. Ở đâu đó những hình ảnh lại hiện ra. Có buổi sáng một đám đông, phần lớn đàn bà, trẻ con, người già nối đuôi nhau qua sông tụ tập gần cửa quận được đưa vào miếng đất trống là sân đá bóng, họ lặng lẽ không nói ngoài lá đơn nguyện vọng cầm trên tay, gần chiều đám đông tan dần, một số ngừơi xin ở lại, họ được hướng dẫn tới khu nhà dành cho những người tỵ nạn. Có một buổi trưa nắng tiếng khóc, tiếng gào vang lên ở phía ngã ba sông, người lính gác ở gần đó chạy lại thấy mấy người đang khiêng một người bị thương để nằm trên một tấm ván...Có buổi sớm tinh mơ, một đám người vượt qua sông đứng nhìn ngơ ngác, họ đã đi suốt đêm để tới đây, có giọng ai đó tại sao lại phải bỏ nhà cửa ruộng vườn mà đi thế này.... Những bóng người lay động mơ hồ đang hiện ra dần dần trước mắt Tư. Tư đứng lên, một tay dơ cao vẫy ra dấu cho đám người bước tới người đi đầu là một đứa bé tay cầm một cành tre trên treo một tấm vải trắng được phất đi phất lại, phía sau là hai người đàn bà, một cụ già và hai cô gái. Tư khoác khẩu súng lên vai. Cầm lấy cành tre trên tay đứa bé vứt xuống ruộng cỏ rồi nắm lấy bàn tay đứa bé một bàn tay sần sùi những vết sước, khô và nhám. Đôi mắt hóm sâu, nước da sạm cháy, những nếp nhăn chồng chất, da sát xương một đứa bé già. Cầm tay đứa bé, nhìn mông về phía chân trời hình ảnh đứa bé lang thang trên cánh đồng bỏ hoang tìm kiếm những con cá, con cua, con chuột, những ngọn lúa ma...Có thể lúc đó trên đầu một máy bay đang lượn hoặc một trái trọng pháo nổ không xa. 63/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày ...Một người nói du kích bảo ra ngoài này họ lột da đầu, ở trong này ít bữa nữa độc lập sung sướng vô cùng...Bọn tôi chỉ muốn tới chỗ nào không có bom đạn...Một người nói từ cái hồi còn giặc Pháp, tôi và gia đình đã từng chạy lung tung hết, lúc ở bên nội, lúc ở bên ngoại, khi lên nhà bác...cứ chạy quanh, vì thế cũng sống đủ kiểu lúc làm ruộng tát mương, khi chăn bò lấy củi. Cứ chỗ nào yên mình tới , ai điên gì chạy tới chỗ bom đạn mà chịu chết...Không thể quên đi những hình ảnh chồng chất lên nhau. Những ngọn dừa xơ xác không còn một tàu lá, những cánh đồng cỏ dại mọc cao hơn đầu người, những mái nhà nghiêng đổ, những cây cầu gẫy...Dọc đường đâu đó có khi còn gặp xác người nằm phơi dưới nắng lửa...Một người nói hồi đó ở trong Cái Tắc tôi đã thấy một cảnh kinh hoàng một toán lính ba-ti-giăng từ dưới đồn đi lên tới gần đầu chợ thì dừng lại, một thanh niên gánh rau đi tới, một tên lính chặn lại, một tên khác đá tung một rổ rau, người thanh niên vụt bỏ chạy xuống cánh đồng lúa ven đường. Một tràng đạn nổ vang động. Những người đang đi trên đường, những người đang mua bán nơi đầu chợ bỏ chạy tán loạn, người chạy xuôi kẻ chạy ngược. Người ta thấy một ông già tay cầm cái phảng chạy về phía người thanh niên bị bắn ngã miệng kê liên hồi thằng con tui, thằng con tui ...ông già cúi xuống đưa tay lay lay xác người thanh niên một lúc rồi đứng thẳng im lặng. Toán lính tiến lại gần chỗ ông già. Bỗng ông già rống lên trời ơi, con tôi...ông già thét lên, tiếng thét như xé rách bầu trời, tay vung cái phảng lên chém những tên lính đang đứng vây quanh. Quá bất ngờ khiến mấy tên lính đứng gần bị chém ngã, mấy tên khác bỏ chạy, có tên đã kịp nhả đạn nhưng ông già còn kịp chém thêm mấy tên khác rồi mới ngã vật xuống đất, cái phảng vẫn còn nắm trong tay...Một người nói cái hồi tôi tới đây lập đồn, tối đến mọi người vào trong lô cốt, trong hầm, con đường đưa tới ngã ba sông hai bên cỏ cao ngập đầu chẳng ai dám lai vãng. Có lần một anh mới tới, tối ra đứng tiểu bên hàng rào bị bắn tỉa vừa chạy vừa la tụt mất cả quần... Cho mãi tới gần trưa số người rời khỏi vùng oanh kích tự do lên tới khoảng hơn hai chục người. Tư tới bên một người đàn ông gầy guộc - Chú Hai thấy ở trong còn ai không? Người đàn ông mắt nhìn về phía chân trời lắc đầu - Chắc hết rồi, từ mấy hôm nay tôi đã thấy lác đác có người đi, du kích làm dữ nhưng người ta cũng tìm ra cách thoát. Sống gì nổi mà ở – người đàn ông thở dài quay người lại , giọng nhỏ như nói thầm – chỉ còn cánh đồng .. Chuyến vượt đồng nhọc nhằn và lo âu làm mọi người mệt nhoài nên đều tìm chỗ khô ráo ngồi xuống nghỉ chân, đôi chân nào bùn cũng lên đến 64/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày tận đầu gối, mấy trẻ nhỏ bùn đất nhem nhuốc cả trên mặt, trên đầu. Sau ít phút nghỉ ngơi, từng toán người kéo nhau đi về phía quận lỵ. Xế chiều Tư theo đơn vị trở về, tiếng trọng pháo bắt đầu nổ về phía bên kia sông. Khi đi ngang qua quán chị Năm, Tư nghe có tiếng gọi vội quay nhìn, thằng Ty từ trong quán chạy ra - Chị Lan bị thương ở chân...nằm trong trạm xá. - Tại sao? - Anh Hai về bắt chị đi theo, chị không nghe, dằng co mãi anh Hai nổi nóng chĩa súng bắn xuống đất, sau khi súng nổ, anh Hai vội vàng bỏ đi. Chờ tới sáng ba má đưa chi Lan lên đây... Tư không nói gì lặng lẽ bước theo đồng đội về trại ... 5 Chú Chín xếp cái bàn tròn lại cho gọn, bỏ những cái ghế đẩu vào bên trong rồi đứng nhìn mông ra hướng ngã ba sông mấy cái lều, mấy cái sạp không mái che bãi đất trống của khu chợ không còn một bóng người. Lùi lại bên này, khoảng đường rộng trước khu gia binh có mấy đứa nhỏ đang đá banh bằng một cái lon sắt, xa hơn cây cầu sơn trắng nổi bật giữa những lùm cây xanh và cỏ dại. Xa xa mấy ngọn dừa in trên nền trời đang dần dần tối đi. Từ khu gia binh có bóng mấy người lính đi về phía quận ly, chỉ trong chốc lát bóng họ đã mất hút... 1970 Cõi sóng lạnh Tôi bước qua khung cổng tre , hai chiếc cột xiêu vẹo, trời nhá nhem tối lờ mờ hình dáng những viên gạch không đều xếp thành hàng dưới mặt sân đất đưa từ cổng vào tới hiên nhà, trên sân còn những vũng nước nhỏ ánh lên, trận mưa từ bao giờ còn để lại, gian nhà nhỏ, hàng hiên thấp hẹp với mấy cột tre nhòa lẫn. Ngọn đèn nhỏ trong căn nhà, nơi gian giữa, cửa mở rộng. Trong ánh sáng vàng vọt, nhoa nhuếch tôi nhận thấy bác Tư ngồi nơi chiếc giường bên phía tay mặt, Thịnh nằm trên giường gối đầu về phía ngọn đèn nhỏ nơi bàn thờ, trên đó, bát hương có một nén đang cháy với đốm đỏ hồng. Bác Tư nhìn lên - Hưng hả ? 65/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Dạ. - Cháu về hồi nào ? - Con vừa về tới nhà, đi chuyến xe chót… - Con ngồi xuống đây. Tôi ngồi xuống bên, tiếng nói bác Tư nhẹ nhàng bình thản đủ cho tôi nghe trong không khí hoàn toàn im lặng của gian nhà. Chung quanh tôi không có gì đổi khác, vẫn là gian nhà những lần tôi trở lại, những lần ngồi tâm sự với Thịnh. Ba gian nhà nhỏ với mái và vách lá, những chiếc cột nhỏ khẳng khiu, chiếc bàn thờ sơ sài thường có những bông thọ, bông phượng khô héo được cắm vào những ngày rằm mồng một mỗi tháng, đôi khi là một đĩa trái cây, mỗi bên của ngôi nhà kê một chiếc giường, bên trái chiếc giường của Thịnh, nơi chúng tôi thường nằm với nhau còn có một giá sách đóng bằng những tấm ván thô sơ, nơi ấy Thịnh để đủ những thứ lặt vặt, từ những thư từ, những tờ báo và những cuốn vở thời còn đi học mà Thịnh vẫn lưu giữ, trên ngăn cao nhất có một khung ảnh lớn trong đó Thịnh để nhiều những tấm ảnh nhỏ hình Thịnh hồi đi học, hình gia đình, hình bè bạn, có những tấm hình đã ố vàng. Vẫn đây gian nhà cũ, thiếu chăng tiếng cười nói của Thịnh. - Thưa bác, người ta đưa Thịnh về hồi nào ? - Hồi quá trưa cháu, nó thật tệ, nào nó có nghe bác… Tiếng nói nhỏ như sợ đánh thức Thịnh trở dậy. Tôi nghĩ tới Mị, tới Thanh, những em của Thịnh, không hiểu chúng nó đi đâu, và nữa, những họ hàng và bà con trong ấp. Không khí chung quanh khiến tôi có cảm tưởng như nơi đây vẫn là cuộc sống thường nhật. Bác Tư đứng lên kéo tay tôi theo đến bên Thịnh. - Cháu coi, nó đang ngủ ngon đấy, ngủ ngon mà nghe lời bác nữa, thưở nhỏ nó ngủ thì nằm nghiêng hoặc co người, bác không chịu cho nó nằm như thế, nhưng cứ sửa lại cho nó đâu vào đó rồi thì nó lại nằm như cũ, bác vẫn nói nằm như vậy về sau không có khá được, nằm gì mà trông như con tôm khô không đẹp mắt chút nào, đứa nào yêu nó mà nhìn thấy nó thì cũng đến bỏ nó. Bác Tư nói nhỏ nhẹ đều đều, bác dừng lại mở tấm vải trắng ra, khuôn mặt Thịnh bình yên nhẹ nhàng. Tôi nhìn Thịnh nhìn bác Tư, tôi không biết có phải bác Tư đang mỉm cười hay không nhưng trong ánh sáng vàng tôi thấy khuôn mặt bác như hiền từ hẳn đi, khuôn mặt hôm nào tôi nhìn thấy khi chúng tôi trở lại nhà 66/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày sau nhiều ngày vắng mặt. Nét mặt tươi sáng lặng lẽ sau nhiều ngày dấu kín. Thịnh đã được đưa trở lại nhà. Bác Tư vạch nơi cạnh vai ra, luồn tay vào trong lớp áo. Giọng đều - Bác thấy còn dấu những vết đạn nơi này cháu, chắc còn nằm lại trong người, là người chứ mình đồng da sắt gì phải không cháu. Chắc là nó hài lòng lắm. Giọng nói như chợt đổi. Bác Tư phủ lại tấm vải lên mặt Thịnh rồi quay ra ngoài, tôi không nhìn thấy khuôn mặt, tôi chỉ thấy đôi vai bác như rung lên. Tôi đứng im. Lúc sau giọng bác Tư trở lại bình thường - Hôm rồi dì Ba trên Châu Đốc xuống mang cho ít mắm ruột, cả nhà đợi nó về, cháu có thích mắm không, mắm ruột Châu Đốc không đâu bằng, hồi trước mỗi năm lên núi Sam lễ bao giờ bác cũng nhớ món đó. Cháu có thích mắm không, có người không ăn được, có người lại thích… Bác Tư nói miên man sang những chuyện khác như quên Thịnh đang nằm bên. Ngọn đèn nhỏ không bị tắt, một cơn gió lùa vào trong gian nhà trống trải, tôi nhìn thấy những vũng nước lờ mờ ngoài sân đất, bên cạnh, tấm vải trắng nhờ nhờ trên người Thịnh. Bác Tư vẫn đứng im. - Bác định tháng tới này cưới vợ cho nó, cháu có về được không đó, con Điệp thương nó, nó cũng lớn rồi, bác thì muốn có cháu bế, cái thằng nó lông bông, ai đời hôm nó về dẫn nó qua bên nhà ông bà sui nó cười nói như ở nhà, nó sục cả vào bếp nhà người ta, rồi khi nói chuyện gia đình, nó bảo với ông già con Điệp là lấy lính bây giờ không biết thế nào, nay sống mai chết nên nó không tính lấy vợ, trời ơi, cháu ngó coi vậy có kỳ không. Nó ngồi nói đủ thứ chuyện với ông già, nó nói cả những chuyện tầm phào giữa những bạn bè lính tráng của nó rồi nó cười hô hố… cái thằng nó… Bác Tư quay trở lại nơi bàn thờ, sờ tay lên mép lấy hộp quẹt và bật lửa, ánh lửa bùng sáng, bác Tư châm lửa vào ngọn đèn, vứt cây quẹt xuống nền đất, đốm lửa đỏ lẻ loi, bác Tư bỏ hộp quẹt trở lại chỗ cũ. Thịnh cười hắc hắc một cách khoái trá, nó nói một cách nghiêm trang khi nhìn tôi chăm chăm Cậu có nghĩ rằng người đang nói đây là một con ma không, nó chết rồi mà, thật đó khi đứng trước gương cậu không thấy hình của ta ở trong gương đâu. Một cảm giác rờn rợn đến với tôi. Tôi đưa tay ra cầm lấy tay Thịnh, cái thằng thật là đùa rỡn, vẫn lớp lông tay mềm, vẫn hơi nóng. Thịnh gặp lại tôi trong thời gian dưỡng thương. Trước đó một tháng tôi trở về, bàn thờ của Thịnh còn khói hương, bác Tư khóc hai mắt còn sưng húp. Một buổi sáng chiếc xe vận tải trở về tìm kiếm và đậu trước nhà Thịnh, những ngưới lính nói với bác Tư, Thịnh đã tử trận, rồi họ cùng nhau khiêng chiếc quan tài bọc kẽm phủ quốc kỳ vào trong nhà, cùng với 67/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày chiếc gối trên đó có gắn một cái huy chương, một vòng hoa đã héo được làm bằng những vòng kẽm gai, phía trên cài hoa, vòng hoa của những người lính cùng đơn vị Thịnh làm cho. Hàng xóm bu lại chua buồn. Bác Tư ôm quan tài khóc, kể những lời ai oán về đứa con bạc phước. Tôi thấy mình chao đi chao lại với cái chết của người bạn thân mà chính tôi không ngờ tới. Nhưng sau đó Thịnh trở về với vết thương nơi chân mặt. Trở lại nhà nhìn thấy ảnh mình trên bàn thờ nó cười ngất. Thịnh không chết. Thịnh bị thương nơi mặt trận, giữa vô số những người chết tan xác Thịnh còn sống trong cơn hôn mê một chiếc trực thăng đã đưa Thịnh tới một chiến hạm ngoài khơi, và Thịnh tỉnh lại trong một gian phòng xa lạ và những người không gặp một lần. Thịnh nói lại những ý nghĩ của mình Không hiểu mình đã tới từ bao giờ; mãi sau trong trí nhớ trận đánh mới đến và Thịnh cảm thấy mình cô quạnh với những nhớ mong ngày trở về mái nhà xưa. Ba tháng sau Thịnh có mặt trong gia đình giữa những ngỡ ngàng cảm động. Vậy ai chết trong quan tài bọc kẽm đó. Thịnh nói Cậu thử tưởng chuyện cậu bị cúng bái, bị làm ma chay rồi, một phần mình đối với những người thân là đã bỏ vào một cái áo quan mà chôn xuống ba thước đất, rồi những ông thầy pháp làm trò này khác, còn gọi hồn gọi vía mình nữa… thật là lạ. Mình sống mà đã chết rồi, có lẽ là từ tiền kiếp gì đó. Sống mà đã chết, bọn mình thế cả, nghĩ mà khiếp… Ba lần coi như khó sống, một lần được làm ma, nhiều lần bác Tư vào nhà thương với hy vọng đứa con trai bị mất đi một cánh tay, một cái chân gì đó cho nó khỏi phải trở ra mặt trận. Bác Tư mong có một đứa con bị cụt, bị què gì đó nhưng sống lại bên mình. Thịnh nói Bà cụ vào tới nơi thấy mình nằm ngay đơ với một bên chân bó bột thì khóc, nhưng ngay đó hỏi bị thương ở đâu con, mình nói nơi chân, bà cụ hết khóc hỏi một cách vội vàng như mừng rỡ, có bị cưa không con, mình nói không, bị gãy nhẹ thôi. Bà cụ mình im lặng không hỏi nữa. Lúc đó mình thấy nôn nao cả lòng. Mình hiểu bà cụ đang nghĩ gì Bà mong cho mình không thể đi đánh nhau được nữa. Thịnh trầm xuống Tao muốn chết cho rồi. Bọn mình ở những lựa chọn khắc nghiệt, chẳng ra thế nào… Giọng Thịnh chùng thấp buồn bã, ở trong những ngày sôi sục lửa bỏng với Thịnh những giây phút rã rời. Thịnh nói Hồi xưa có lẽ người ta sung sướng hơn bọn mình, đời sống đơn giản phải trái phân biệt, trắng đen rõ ràng, cái nền tảng phán xét không có gì phải nghi ngờ. Sướng thật. Nay thì không rồi nhỉ, chuyện gì cũng có thể biện minh. Ăn cướp, hiếp dâm, giết người cũng có những lý lẽ của nó… Thôi không nói nữa, thảm quá. Chỉ tội bà má. Ở những thời buổi khác, cha mẹ mong cho con cái thành tài, khỏe mạnh, nào đâu bây giờ, mong cho con bị cụt chân cụt tay mà ở lại bên mình, làm một tên què có lẽ lại xong, nhưng số mình không què, chắc là chết non, kể cũng là một thứ ma chê 68/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày quỷ hờn ghê lắm bọn mình mới còn sống đấy nhỉ, nếu không thì có lẽ cũng đã thành bụi cả rồi… Bác Tư đi ra cửa, tiếng dép kéo lê buồn chậm, tới hiên bác dừng lại như nhớ tới tôi - Cháu xuống dưới này ăn cơm với bác. Giọng nói ngọt nhẹ, tôi bước ra khỏi nhà, bác Tư đi xuống nhà ngang, gian nhà đầy ánh sáng, mâm cơm để trên chiếc bàn nhỏ giữa nhà phủ tấm khăn nhựa đỏ với những ô vuông, bác Tư mở chiếc tủ ăn nhỏ lấy thêm chén đũa rồi ngồi vào ghế, bác nhẹ nhàng im lặng xới cơm ra chén cho tôi - Ăn với bác chén cơm cho vui, Thịnh nó ít muốn bị quấy rầy, nó đang ngủ thì đừng khua nó dậy, nó ngủ cho đã thì trở dậy kiếm ăn, cái thằng nó chẳng bao giờ chịu để cho ai chìu chuộng, ai lấy nó thiệt phước…, thịt kho nước dừa đấy cháu, Thịnh nó ưa món đó lắm… Tôi bưng chén cơm ăn, tôi thấy gai lên với một cảm giác ớn lạnh. Có thật Thịnh đã chết ? Buổi chiều xuống, hai chúng tôi dời nhà đi dọc theo bờ kênh đào, con kênh rộng như một dòng sông nhỏ, qua cây cầu chúng tôi ngừng lại trước trường tiểu học, Thịnh đi xuống mé kênh, trèo lên một thân cây dừa đổ ngồi lên, thả chân xuống dòng nước, ngôi trường học là một dãy nhà ngói thấp nằm mãi sâu trong, bỏ lại phía ngoài khoảng sân đất rộng với những khoảng cỏ mọc không đều, trên đó những lối đi mòn, chiếc trống treo nơi cuối dãy hiên dài, tất cả đều vắng lặng, sân trường cách với con đường đất bởi một con lạch nhỏ trên đó đọt cỏ cao vòng hẳn lên, Thịnh lấy thuốc ra hút, Thịnh nói tới những ngày nhỏ học tại ngôi trường thân yêu này Mau thiệt, mới hồi nào đùa nghịch, chơi rỡn, mới ngày nào mới cao hơn mấy đọt cỏ, thế mà bây giờ bọn mình đã thành người lớn, cầm súng, đánh nhau và vô số những chuyện tầm phào chẳng ra thế nào. Có hôm hành quân vào một làng nhỏ, mình đứng dưới một gốc ổi hái một trái ổi nhỏ vừa chín bỏ vào miệng, thật là tuyêt diệu, mình sung sướng chảy nước mắt, những ngày thơ ấu nơi quê hương, hái một chiếc lá ổi vò nát trong lòng tay, mùi thơm tha thiết mộc mạc… Thịnh chỉ sang những ngọn dừa cao phía bên kia con kênh hồi xưa những ngọn dừa còn thấp, bọn này tước những chiếc lá dừa non tết thành con châu chấu, tết những cái kèn, mới đó mà đã xa mù. Bác Tư chợt òa khóc, bát cơm cầm trên tay, hai tay run lên, tiếng khóc tấm tức, bác phải bỏ bác cơm xuống hai tay ôm mặt, chừng như tiếng khóc bị giữ kín lại khiến hai vai bác Tư rung lên từng nhịp liên tiếp. Tôi muốn nói vài lời an ủi nhưng tôi không biết nói sao. Lúc sau bác Tư kéo vạt áo lau mắt rồi bưng cơm ăn tiếp. Tôi nghe thấy tiếng những con muỗi bay vo ve. 69/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Quả là cái số tao. Này, mày thấy không, thời mình đâu phải không có những anh hùng, thế mà chẳng ai chịu nói tới những anh hùng ấy, mới đầu tao nghĩ mãi về điều đó, sau rồi tao mới thấy là có lẽ thời mình không có anh hùng với mọi người, chỉ có những anh hùng một mình, không có những anh hùng cho người khác, thời buổi của cuộc chiến này như một cái gì kỳ cục, tạo nên những anh hùng buồn rầu, ngơ ngác và không ai muốn ca tụng hay nói đến. Mà ai còn lòng dạ đâu dể mà muốn trở thành anh hùng, toàn là những anh hùng bất đắc dĩ, nghĩ mà thảm. Mình cũng là kẻ anh hùng đấy chứ. Thịnh cười vang lên, tiếng cười như lan theo với dòng nước của mặt kênh đào phẳng lặng. Mình mong sống sót sau cuộc chiếc này, nhưng nếu thế cũng thảm thiết không kém, khi ấy mình chẳng còn bạn bè, chẳng còn những người thân thiết đã chia sẻ với mình những gì đã trải qua, và thật là bất hạnh cho ai còn sống, phải vậy không ? Nghĩ mãi thì đến phát điên lên được. Thịnh vụt đứng lên thân cây dừa và lao mình xuống lòng kênh, tiếng nước vang động và Thịnh mất tăm trong lòng kênh. Tôi kêu lên Thịnh, Thịnh… không có tiếng đáp lại, lúc lâu Thịnh nhô đấu lên mãi đằng xa nhìn tôi, hai tay vuốt nước trên mặt và cười vang động Hóa sức mình cũng còn mạnh gớm đấy nhỉ, cũng bơi đi được một quãng xa. Tôi nói Ta tưởng cậu định tự tử. Thịnh cười Định tự tử nhưng chót rồi quên không mang theo thẻ căn cước – tiếng cười ngạo nghễ – cậu tưởng tự tử dễ lắm hả ? Thịnh bơi trở lại chỗ tôi ngang qua cây dừa rồi tiếp tục bơi nữa về phía gần cửa nhà, tôi đi trên bờ theo với Thịnh, về tới gần nhà Thịnh mới bơi vào bờ rồi lên đi bên tôi với quần áo ướt sũng, nước nhỏ giọt theo với bước đi. Tôi trông Thịnh nhợt nhạt như một người sắp chết. Thịnh kêu Lạnh quá, cho điếu thuốc đi. Tôi châm cho Thịnh điếu thuốc để lên môi. Chúng tôi trở lại nhà không nói điều gì. Bác Tư đã trở lại bình lặng xếp những chén bát lên kệ rồi bác trở lại bên tôi - Cái con Mị nó điên rồi, cháu biết không, nó kêu lên là anh Thịnh chết rồi, nó điên thật mà, nó khóc, nó kêu than như mụ điên vậy, bác bảo sao nó cũng không im cho thằng Thịnh nó ngủ, bác đã nhốt lại ở trong chiếc tủ rồi, mình xuống xem nó đã hết điên chưa. Thịnh nó thương các em nó hết sức, nó chìu em nó đến bác cũng bực mình. Bác Tư dắt tay tôi lên buồng, tôi nghe tiếng khóc tấm tức ở đâu đó vang lên cùng với tiếng kêu anh Thịnh ơi, anh Thịnh ơi, sao anh bỏ các em… Đứng trước cửa buồng tôi nghe rõ tiếng Mị kêu khóc. Bác Tư gắt lên - Con nhỏ này mày không im đi hả, im cho anh mà ngủ. Bác tư mở cửa buồng ra, tôi giật mình nhìn thấy con heo trắng lớn thò đầu ra. Tôi xuýt kêu lên thành tiếng. Bác Tư đóng cửa lại đi sang phòng 70/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày bên cạnh - Bác nhốt con Mị bên này. Cánh cửa mở ra, bác Tư bước vào, tôi đi theo, Mị ngồi nơi chiếc giường nhỏ đang ôm mặt khóc, tiếng khóc nhỏ nghẹn ngào. Tôi đến bên - Em nín đi… Mị ngẩng mặt nhòe nước mắt nhìn tôi ngỡ ngàng - Anh Thịnh chết rồi anh ơi… Bác Tư giọng nghiêm khắc - Cái con khỉ này, im cho anh mày ngủ… Bác Tư cầm ngọn đèn đi ra, tôi dắt Mị đi theo. Cơn gió nhẹ làm ngọn đèn bốc cao rồi phụt tắt bỏ lại chúng tôi trong bóng tối bít bùng. Chúng tôi mất nhau. Tôi cầm lấy cổ tay Mị lạnh ngắt. Tôi nghĩ tới cõi âm của đời sống Thịnh… 1970 Đôi mắt Tôi đếm rõ ràng trên mặt đường sỏi trắng có bốn cánh lá màu vàng úa, một cánh khô bị rách nhiều mảnh như sâu đã ăn đi từ lúc còn ở trên cành, chiếc lá sau cùng mới hơi úa một chút phía ngọn và cuống lá còn gắn vào chiếc cành nhỏ màu nâu dài hơn gang tay. Chiếc lá này chưa đáng rụng khỏi cành, ít ra nó còn có thể chịu đựng có khi vài ba ngày nữa, và biết đâu có khi nó khô luôn ở trên cành vì nó đâu phải lá già mà rụng xuống – “ Sao lá xanh lại rụng trước lá già, con chết đi ai khóc và chôn cất mẹ.” Hai con mắt mở thao láo đỏ như rớm máu. Sao chiếc lá xanh kia đã rơi theo chiếc cành, cơn gió nào đã thổi qua. Không có cơn gió nào từ lúc đó tới giờ. Một con chim sâu màu hạt dẻ, hai móng chân màu chì đã đậu xuống vì một con sâu xanh. Con sâu cuối cùng của cây bàng, con sâu không kiếm tìm ra được một chiếc lá xanh, một búp non của những cành cây mùa thu. Con chim đậu xuống và chiếc cành rơi mang theo cánh lá mà cuống còn đủ nhựa sống chưa rời rã. Ai rồi không chết. Con chim hốt hoảng kêu thành tiếng rồi cố sức liệng lấy sức bay lên một cành khô ngó xuống ngỡ ngàng, không còn một cánh lá. Tôi tìm kiếm trên làn sỏi bóng dáng một con sâu bị văng ra đó. Nó còn sống được chăng. Nó bò đi đâu. Nó bị dập không. Có đàn kiến vàng nào đã tìm ra một kho lương thực đặc biệt. Con sâu màu xanh, màu nâu, màu đen, màu vàng lông sù như chiếc áo len Quyên mặc 71/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày vào mùa đông ấp cao lên quá cổ. Quyên tươi cười không tiếng động, đôi má lúm đồng tiền, đôi mắt to đen và những đợt lông tơ mướt trên làn má hồng ửng. Không thể có một con sâu. Chiếc lá lay động, vẻ kiêu ngạo của một ngọn cỏ may vào mùa đông. Trong một khu rừng lá chưa bao giờ rụng hết một lần ở trong đó còn nhiều cành lá xanh. Bốn mươi tuổi, một người cha bảy mươi tuổi, cánh lá là đứa con kia vẫn mang nghĩa một cánh lá xanh. Tại sao đã chết ? Mỗi người đều chết. Trong đám tang, một người chín mươi, đứa chắt chít khăn vàng đi chân đất nhảy choi choi cười. Không bao giờ có tiếng khóc cho tuổi già. Có những người chết đi không ai khóc, ở đó có niềm vui. “ Ai khóc và chôn cất mẹ, con ơi !” Tiếng kêu ngân lên vang dội, dật dờ, va đi va lại vào những bức tường thực tại rồi cuống quít trà trộn, tràn lan… những giọt nước mắt ứa xuống. “ Ai khóc và chôn cất mẹ, con ơi.” Thêm hai cánh lá vừa rụng xuống lặng lẽ, cánh lá xanh vẫn lay động. Một cơn bão sẽ đến chẳng hạn. Thân cây mục khô của mùa hè trước được hạ xuống làm ghế ngồi vẫn nằm im nếu bây giờ động nó, đi ra nơi khác có khi gãy ra từng khúc. Thân thể đã khô cứng ướt đẫm nước sông. Từ bên kia bờ đê chú Tâm vác trên vai xác người anh ruột từ sông Cái trở về, bộ quấn áo màu nâu còn ướt sũng nước thấm xuống người em ướt từ vai xuống tới chân như vừa lội dưới ao lên. Chiếc xác đã cứng đơ như khúc gỗ. Chú Tâm tĩnh táo đi về một cách thông thả và chắc chắn, đôi mắt đỏ khô ráo, mọi người đứng lại mở mắt nhìn ngạc nhiên. Chú qua cổng đi vào nhà đặt xác người anh xuống ngay chiếc sập gụ “ Anh ấy chết rồi.” Chết rồi, chết thực rồi. Thân gỗ không còn động đậy. Tôi chạy đến kêu lên “Bố ơi, bố ơi”. Rồi tôi bỏ chạy ra một khoảng ôm lấy chiếc cột nhà. Nước từ bộ quần áo vẫn rỉ ra loang trên mặt gỗ như một thứ máu đen. Tóc rối bù, hai mắt trợn, chú Tâm để người anh nằm giữa sập kéo hai chân ruỗi ra .Chú giữ lấy mạn sườn đẩy cho xác chết nằm nghiêng và thò tay cởi sợi dây thừng, chiếc dây thừng buộc trâu mỗi ngày tôi vẫn thường cầm để dắt trâu ra sông tắm, thứ thừng cuộn tròn lại làm một thứ bàn chải đủ cho làn da đen của con trâu kéo mật bóng lên. Chúng đã buộc chéo hai tay bố tôi bằng thứ thừng chắc chắn đó. Chú Tâm loay hoay mãi vẫn không sao gỡ được thắt nút. Chú kêu lên “Kiếm cho con dao đây”. Với mũi nhọn chú Tâm lách mũi và cắt đứt sợi thừng một cách khó khăn. Chú cầm sợi thừng bị đứt làm nhiều đoạn vứt ra ngoài sân, con chó vàng ở đâu nhảy sổ ra vồ rồi cắp chạy.. Hai cổ tay bắt chéo chừng như đã cứng vẫn nằm nguyên, chú kéo cánh tay trái ra, lật xác trở lại và kéo nốt cánh tay phải để lên bụng. Cánh tay như một que củi, chú cố vuốt và uốn cho cánh tay nằm trên bụng và ở trên nhau. Bây giờ tôi nhìn rõ hơn hai đường hằn bầm tím trên cổ tay đã đen, lõm vào trong thịt và làm mất cả một làn da đen. Một người bị treo lên cành cây đu đi đu lại với những chiếc roi quất ngang và thân hình oằn lên, hai chân dãy đạp vào không khí, chiếc đầu ngoẹo đi ngoẹo lại cà tiếng 72/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày la thét trở thành rên rỉ rồi rũ ra như một con sâu. Chúng nó đã làm như vậy sao ? Một cơn gió thổi mạnh, nhựng cánh lá bị thổi bay lên cùng ít bụi đất, cơn gió mang những cánh lá dạt vào thân cây khô. Cánh lá xanh còn ở lại đó. Chiếc cành nhỏ chỉ nghiêng đi một chút và cánh lá nằm xuống mặt sỏi không còn động đậy. Sao không có ai tới thăm giờ này, rủ mình đi dạo một chút trong khu bệnh viện và những câu chuyện rất riêng tư về vợ con, anh em họ, hoặc một câu chuyện vui mà ai cũng có để kể cho những người bệnh nghe rồi cười như cuộc sống có rất nhiều hạnh phúc mà ai nấy cùng được hưởng. Đứa con gái của Nhâm đã tám tuổi, nó biết đòi mẹ nó đánh móng tay đỏ, chải đầu thắt nơ xuống mái tóc ngắn xõa, đòi xức nước hoa và mặc chiếc váy xòe trắng mỏng có thêu một con nai màu xanh đứng bên một cụm hoa nhỏ màu vàng, những hoa tròn lớn thật rực rỡ ở đó có một con bướm xòe cánh đậu. Tên cháu là gì nhỉ. Nhâm cười cười, thế là mình không làm sui gia với hắn được rồi. Có khi bây giờ Nhâm còn bận lắm, Nhâm đang cầm tay đứa nhỏ bắt viết trên cuốn tập đồ nếu không hắn sẽ vào đây và như thường lệ hỏi cậu có ngủ ngon không, hôm nay ăn được mấy chén cơm, cô y tá hôm nay có đánh phấn không ? Bây giờ có được một chiếc ghế dựa đong đưa để dưới bồn cỏ kia, một chiếc bàn con với ấm trà nóng…mình sẽ nghe tiếng nói một người rất quen nói, chốc chốc ngừng lại nhấm trà xuýt xoa vì nóng và khen một câu bâng quơ trời đẹp quá, nước hôm nay mới đúng để uống trà đây, thiếu mất một thỏi kẹo lạc với những mảnh lạc màu nâu bóng nhẫy vì lớp đường. Một màu nâu không có ở thân gỗ, sao thân gỗ với lớp vỏ mốc vẫn chưa rã ra. Chú Tâm kêu lên “Dã man”. Dã man là thế nào. Chết mất rồi, bà nội ôm chầm lấy xác người con cả mà khóc, mà la, rồi khóc không được, tiếng nói đã biến mất chỉ còn lại một giọng khàn khàn, và miệng méo sẹo trên khuôn mặt nhăn nhúm như một mớ giẻ rách lâu ngày trong chiếc bị, những giẻ rách được cất đi từ trong những chiếc áo chiếc quần tơi tả không còn miếng nào bằng được bàn tay, nhưng nó vẫn được lưu giữ để lâu lâu lôi ra và tìm kiếm khắp lượt lựa lấy miếng nào còn lớn nhất trong đám đó. Khuôn mặt nhăn nhúm căng ra rồi co lại và môt âm thanh phều phào ướt át. Chú Tâm phải kêu lên mang bà nội ra gian bên. Chú kiếm chiếc gối mây cũ để lên đều xác chết, vuốt mớ tóc ngược về phía sau một cách phẳng phiu, chú xoay trần lấy áo lau khuôn mặt nhợt nhạt, chú lau cả xuống cổ. Khuôn mặt tái xanh đôi mắt trợn ngược như một pho tượng đá. Chú đưa tay vuốt mắt lại khi chú buông tay ra thì máu tím ở trong mắt ứa ra ràn rụa, đôi mắt vẫn chưa chịu nhắm, chú vuốt lại và giữ tay lại đó một lúc, chừng như máu ứa ra đã đọng lại gắn đôi mi mắt lại với nhau và khuôn mặt trở thành hiền từ. làn máu chảy xuống đọng thành hai hàng dài bên sống mũi như hai con giun đất đã bị kiến đốt chết không còn oằn oại. 73/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Bà nội mang từ buồng bên ra một tờ giấy bản, chiếc đũa mộc, bà đổ vào tay chú Tâm mấy đồng tiền trinh. Chú Tâm đưa tay cạy hàm răng ra, nước trắng ứa tràn xuống cổ, chú nghiêng đầu cho nước chảy xuống mặt ghế, nước trắng ra hết, sau cùng là một vốc bùn đen với dãi nhớt, chú Tâm còn moi ra cả một mớ cỏ rác. Chú lau miệng rồi bỏ mấy đồng trinh vào đó, hai hàm răng cứng chú banh ra và ngáng chiếc đũa mộc vào. Chú quay ra bảo “Cháu nhìn mặt bố đi.” Bố tôi với khuôn mặt sáp trắng bệch, mắt nhắm nghiền như ngủ, và hai hàm răng cắn lấy chiếc đũa chắn ngang không động đậy. Rồi tờ giấy bản trắng được phủ lên … Chú tôi đứng lên, đôi mắt đỏ và khô ráo, bỗng chú lại cúi xuống, nghiêng người nhìn xuống mang tai bố tôi, chú đưa tay sờ vào đó rồi kêu lên “ Chưa hết, chưa hết, một chiếc đinh nữa đây”. Chú đứng thẳng lên nói lẩm bẩm “Dã man, dã man, đồ chó má…” Tôi đứng lại gần và đưa tay vào làn da lạnh, dưới lỗ tai một chút tôi sờ thấy rõ mũ một chiếc đinh mười phân còn trồi ra đó. Bố tôi không kêu thành tiếng, ngậm miệng với mớ cỏ rác trong họng, nhắm mắt với búng máu ứa, tay chắp với sợi thừng buộc trâu không cựa và chết với chiếc đinh mười phân đóng sâu vào đầu. Một thân gỗ với nhiều vết đinh, với nhiều làn đạn, với gió bão đã đủ để gục chưa ? Tôi nhìn chú Tâm một lúc, sao không thể nhổ chiếc đinh này ra xem có phải là mười phân không, nhổ ra bố tôi có thức dậy và ông sẽ cười nói. Câu chuyện của một người trong đêm kia có một toán người lạ mặt đến dẫn qua một con đường rất lạ, để đi đến một bờ sông rộng, tối đen không nhìn thấy bờ bên kia, mọi người đứng lại ở một bến đò chen chúc, không khí gây lạnh, rồi ngưới đó không được sang sông, bị đuổi về. Mỗi thế giới cách nhau một bờ sông đen. Nếu đã sang bên kia dòng sông. Chắc bố sẽ cười lớn và kêu “ Thật chiêm bao”. Rồi tôi đến bên một bờ sông đen và xuống thuyền không quay trở lại nữa. Vị bác sĩ thường trực hôm nay là người trẻ nhất của bệnh viện này, ông đang đi từ phía cầu thang lên, có cả cô y tá với chiếc răng khểnh, không rõ cô tên gì. Tôi muốn nhớ lại, và nhớ thật lâu tên cô, nhớ không bao giờ quên. Hai người đang đi vào sân thăm các bệnh nhân. Người gác cửa đang đi bách bộ nơi cổng sắt, ông ta nhìn thấy mình rồi đó, ông ra dấu cái gì, sao ông chỉ chỏ chi vậy, à ông ta báo cho mình về việc vị bác sĩ thăm bệnh nhân. Tôi gật đầu liên tiếp mấy cái. Cổ họng tôi ngứa và muốn bật ho. Tôi ứa nước mắt. Sẩm tối hôm đó có bốn người lạ đến, bằng đường tắt, nhảy qua hàng rào gai. Bố tôi đang ăn cơm, ông ngồi lặng thinh, ông nói gì đó với mấy người, ông có vẻ bực bội, phản đối, nhưng sau cùng cầm lấy 74/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày chiếc tăm và theo họ đi ra bằng cổng xép. Tôi chẳng hiểu bố tôi đã đi tới đâu, sau đó ông thế nào suốt trong một tuần lễ và sau chót với xác chết của ông nằm trên một bờ sông. Họ đã làm gì với bố tôi trong suốt tuần lễ. Sau này tôi mơ hồ được rõ bố tôi ở về phía những người chống lại họ. Sao bố tôi không theo họ để phải nhận một chiếc đinh lớn cỡ đó. Thật không thể nào hiểu được. Trên chiếc xập đó chú Tâm đã mặc cho bố tôi chiếc áo dài the tươm tất, đội khăn xép. Và cỗ ghế ngựa được phá ra đóng chiếc quan tài. Chiếc quan tài đóng vội bằng chiếc đinh lớn cỡ chiếc đinh đóng vào đầu bố tôi, với thớ gỗ sù sì bố tôi được bỏ vào đó và đậy kín. Bà tôi khóc vật vã, chú tôi lầm lì. Bố tôi được chôn ngay gần với chỗ mẹ tôi đã được chôn cách đó hơn một năm, đám ma mẹ tôi khác hẳn, mẹ tôi chết sau khi ở rừng về, bị sốt rét không có thuốc. Chiếc quan tài sơn đỏ mua dưới chợ, chiếc áo quan mỏng mảnh nhưng đẹp đẽ hơn và được đặt lên vai bốn người đàn ông. Bố tôi được khiêng với những sợi thừng lớn trên hai chiếc đòn ống… Những hòn đất khô rất lớn đã được đổ xuống huyệt một cách vội vàng làm át đi tiếng khóc yếu ớt của bà tôi. Và mãi khi đó tôi mới khóc vì biết bố chết thật, ông không bao giờ còn nói cười nữa. Mỗi người đều chết. Khi mẹ tôi sắp chết, mẹ tôi gọi tôi đến bên không nói gì rồi tắt thở. Nay bố tôi chết cũng không nói lại điều gì. Mọi người đều lặng lẽ. Sao họ giết ông. Họ là ai vậy, họ mang quyền lực gì. Họ thử đến cho tôi nhớ mặt. Tôi không biết ai. Tiếng huýt sáo của người gác cổng, tiếng chân của vị bác sĩ và cô y tá. Tôi quay lại và mỉm cười. - Hôm nay ông thấy thế nào, có khá không ? - Cám ơn bác sĩ. - Sao ông không nằm nghỉ cho khỏe ? - Chắc ông mong người nhà – lời cô y tá – . Hôm nay không có ai vào thăm sao. Hết giờ rồi không ai vào nữa đâu, ông nên nghỉ. Tối nay có một nhạc sĩ ngoại quốc sẽ đến đây trình bày sau bữa cơm giúp vui cho các bệnh nhân. Tôi chắc ông sẽ thích. - Vâng ông đừng buồn, ông phải yên tâm mới mau lành được. - Tôi sắp chết. - Không đâu, ông cứ yên tâm, bệnh gì cũng có thể chạy chữa được hết, rồi ông coi. Trước hết phải ở ông đã. Ông nên vào nghỉ, tôi đi thăm bệnh nhân nghe. Cô y tá mỉm cười, vị bác sĩ đã bước nhanh. - Ông muốn tôi dẫn đi dạo không. 75/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Cám ơn cô, không. - Chắc cô bạn của ông bận việc gì. Mỗi người nằm trên một chiếc giường sắt có phủ vải trắng, một chiếc màn, mỗi đầu giường treo một chiếc bảng ghi chép những con số, bốn bức tường xanh, mỗi người nằm ngửa thở ra với lồng ngực lên xuống đều đặn, rồi có người bước ra cổng sắt, có người được khiêng xuống nhà xác mãi góc vườn phía xa sát bờ tường và được bỏ vào quan tài. Cơn gió lớn ở đâu thổi ngược trở lại, mấy chiếc lá lại bay tung ra ngòai mặt sỏi, chiếc lá xanh lại dựng cao lên và lay đông. Quyên lấp ló ngoài cửa phòng và tủm tỉm cười trong không khí gây lạnh và màu sắc nhợt nhạt. Một căn nhà nhỏ với mảnh vườn có trồng cây vú sữa. – Em hãy đừng đến đây nữa. Anh không yêu em đâu. Bây giờ đã quá giờ tan học chưa, có lẽ bây giờ Quyên còn đang trên đường trở về, nàng đã tới ngõ, đẩy cửa, chiếc cửa ai cài then vậy, nàng cầm nón và cặp sách sang tay trái, tay phải luồn vào trong mở then rồi đẩy ra, vào tới lối đi nàng khép cửa lại. Nàng nhảy choi choi trên bậc cửa, vào nhà liệng bỏ cặp vào bàn cầm nón xuống dưới, tiếng nói của mẹ và con rồi nàng cởi áo dài, hai cánh tay trắng nõn tròn trặn và đôi vai nhỏ. Chiếc cổ với những sợi tóc dài quấn ngang. Thân thể nàng nhòa dần và tan vào bóng tối. Anh không yêu em, không yêu em nữa. Bóng tối trở xuống làm nhòa tan những chiếc lá, lớp sỏi trắng trên nền sân đã mờ đi. Tôi leo người ngồi lên bao lơn dựa vào chiếc cột gạch. Ngọn đèn dầu soi rõ khuôn mặt Lịch, người bạn độc nhất nhớ tôi đến thăm lần cuối trước khi lên đường đi giữ một đồn ở ngoài biên giới. Khi vừa gặp hắn văng tục. À lâu quá tôi không được nghe ai văng tục nữa - Bạn bè đứa nào cũng khá cả, chỉ có cậu là tồi, ngần ấy năm cậu làm được gì. Mấy cuốn sách nát, một mớ ý nghĩ lộn xộn trong đầu rồi đi đến đâu ? - Chết. - Không tưởng, không tưởng… - Cậu tưởng tượng hộ tôi khi cậu bị một chiếc đinh đóng vào đầu chẳng hạn, hay một mũi tên ghim vào ngực chẳng hạn, khi đó cậu nói với tôi thế nào. - Nói khỉ gì nữa. - Cho nên tôi hỏng. 76/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Tiếng súng ở đâu vọng về có lúc tôi nghe tiếng súng nổ trong óc tôi, trong đầu tôi giữa đêm thanh vắng. Tôi biết chắc chung quanh không có tiếng súng nào, một đôi khi nhưng tôi vẫn nghe thấy tiếng súng, và cả một mớ lửa cũng đốt lên nữa, ngọn lửa mà không có gì làm tắt đi được. Trong lửa đỏ tôi nghe tiếng cười và đầu óc loãng tan. Tôi muốn có một con dao tiện lấy cổ mình một cách ngọt ngào, tôi để đầu xuống mặt bàn rồi bửa ra làm hai mảnh để tôi dò tìm dấu vết của viên đạn, của mũi đinh, của một tàn lửa, nhưng chừng như trong khối óc tôi chỉ thấy toàn sạn đen lổn nhổn, những sạn đen không đủ để làm một viên đá kỳ lưng sau khi trộn với xi- măng. Đó là điều làm tôi buồn. Tại sao trong đầu mình lại không có một quả ô mai mặn để mình ngậm ho. Lịch dẫn tôi về thăm gia đình, bố mẹ đều già, ông cụ tóc đã hoa râm vẫn còn đi làm, bà cụ trông nom nhà cửa, hắn có hai người em gái, vợ hắn có một khuôn mặt tròn, má có gò cao và nước da ngăm đen, tiếng cười rất giòn. Đứa con đầu lòng là trai mới được hai tháng còn để trong chiếc nôi mây có phủ màn trắng, đứa nhỏ ôm trên ngực bình sữa đã cạn và nhắm mắt ngủ. Lịch bảo - Con mình nó kỳ lắm, bỏ chai sữa ra nó khóc và thức dậy đó. Cậu trông nó thế nào ? - Giống cậu. - Con mà không giống bố còn giống ai ? Và tôi cũng sẽ bị đóng một cây đinh vào đầu, nước lan trên mặt sập, mắt ứa máu, một mũi tên đen bay đến cắm vào ngực tôi rất sâu không sao rút ra được. Cây bàng trơ lá mọc thêm những cánh tay khô, một kẻ nào đó mang búa rìu đến hạ xuống. Lịch bực tức - Cậu đã sống ngần ấy năm ra sao ? - Không nhớ được. - Bây giờ ? - Sắp chết. Tôi nhói nơi ngực và ho, cô y tá trở lại, tôi nhìn ra môt người trắng toát. Cô đưa tay đỡ tôi xuống và dẫn vào giường. - Ông không thấy hôm nay gió nhiều sao, ông nghỉ một chút, ăn cơm, tôi sẽ tới dẫn ông cuống nghe âm nhạc, ông nhạc sĩ này còn làm cả trò hài 77/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày hước nữa. Tôi nằm xuống, tôi nghĩ đến một căn nhà, những người chừng như tôi chưa gặp bao giờ. Những chiếc đinh. Những thân cây. Những chiếc lá vàng bay rồi rơi vào một miệng hầm đào vội. Tiếng ồn ào đang vang dội từ dưới hội trường của bệnh viện. Những màu trắng ngồi dậy, đứng lên và bước đi lờ đờ. Tiếng chân bước mơ hồ. Một cánh tay trần màu sáp hồng, một đứa nhỏ mặc áo rộng có hoa đỏ với con nai con. Đã bao nhiêu năm, đã đi qua những đâu, sống thế nào, gặp ai, người khóc, cười, tiếng súng…không nhớ nữa. Một bóng trắng tiến tới - Ông vẫn chưa ăn sao, tôi giúp ông nhé, người nhạc sĩ tới rồi, ông ta vừa gảy đàn vừa hát, vui lắm, ông xuống không. Họ xuống hết cả rồi. Tôi trở dậy theo cô y tá xuống thang gác. Trong phòng đầy người. Người nhạc sĩ đang gảy đàn, mặt nhăn nhó… Tiếng vỗ tay. Tôi cầm tay một người ngồi bên hỏi - Anh ta đang làm gì đó. Hắn khóc phải không. Sao không vỗ tay đi. Giữa những tiếng vỗ tay, tôi lần ra hành lang, và đi xuống con đường trải sỏi ra ngồi nơi thân cây mục. Gió thổi ào ào tôi lê ngồi xuống thảm cỏ và nằm xuống. Trên trời đầy sao với nền trời mỏng và phẳng. Sao không trông thấy mặt mình. Mặt mình ở đâu. Mỗi ngôi sao đều sống nhiều năm, có thể rụng xuống và ánh sáng tắt. Chiếc quan tài sơn đỏ bỏ tấm ván thiên, người thầy cúng ê a, những người thân đứng ngoài, từ nơi chiếc quan tài một chiếc thang làm bằng hai dọc chuối được dựng lên dựa vào mái tranh, ông thầy cúng khua cành phan, chiếc áo cũ của người chết, người đàn ông đứng trên mái nhà hét lên ba hồn chín vía… ở đâu thì về nhà mà nhập hồn quan. Mũi dao nhọn đượcdùng viết vào thành ván, và chiếc thang bị chặt đứt làm đôi… người chết không bao giờ trở về nữa. Mình sẽ như thế, sẽ không có một chiếc thang bằng tàu chuối được chặt đứt. Sẽ không có tiếng hú hồn, sẽ không được nằm xuống một chiếc huyệt mùi bùn hăng và huyệt mộ sẽ nằm trong một dãy dài những kẻ chết đi không có ai ngó đến… Sao mình đã nhớ quá nhiều. Sao mình không nghĩ đến một, hai, gì đó… Một chiếc thuyền lướt đi nhẹ nhàng rồi bỗng chốc chìm xuống khỏi mặt nước không để lại một dấu vết nào, dòng nước vẫn lặng lờ chảy. Một hòn đá từ đâu rơi xuống. Tiếng vỗ tay vang lên. Tôi trở mình nằm sấp xuống nền cỏ, mùi đất nhẹ nhàng và mùi cỏ tươi, tôi nhai trong miệng một ngọn cỏ tươi vị đắng nhẹ, hơi đất ẩm vây quanh, trong giây phút đầu tôi rỗng không. Khi trở mình nằm ngửa trở lại, tiếng động vang lên từ những lối đi. Cuộc vui đã dứt. Đèn tắt. Tiếng sỏi động chung quanh, tiếng xe nổ máy, tiếng khóa 78/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày ngoài cửa sắt. Tôi mở mắt và tôi nhìn thấy một đôi mắt trìu mến nhìn tôi, đôi mắt dại và yếu đuồi trên nền trời mỏng đều… 1965 Ngày đốn cây vú sữa Bên kia bờ sông của quận lỵ là một xóm nhỏ, những căn nhà thưa rải rác trên những khoảng đất trống không đều, có khoảng đất được canh tác, có khoảng bỏ cỏ hoang, những cây ăn trái và ít gốc dừa nước rải rác theo với mép sông nước ròng, có mấy con kênh nhỏ đưa nước vào sâu trong xóm. Trong khu xóm có một ngôi nhà ngói cũ, ba gian, một sân gạch nay đã hư nát, ngôi nhà ở phía ngoài đường liên tỉnh để tới đầu cầu đưa vào thị trấn. Trong khoảng vườn rộng của ngôi nhà có trồng một cây hoàng lan lớn. Ngôi nhà có một khoảng mái bị đạn nay được vá lại bằng một tấm tôn sáng bóng. Cách với ngôi nhà không xa, bám vào con đường liên tỉnh có một ngôi trường học nay bỏ hoang với mái ngói sụp đổ và là nơi những toán quân ngang qua vẫn coi chừng bằng cách nổ những loạt đạn bâng quơ vào trong tường gạch đã cũ vì mưa nắng và um tùm những cỏ dại. Một người đàn ông đứng tuổi đạp chiếc xe đạp cũ vào thẳng trong sân ngôi nhà, trời đã chiều, toán dân vệ từ đồn nơi đầu cầu đi hàng một dọc theo con đường khởi đầu chuyến kích đêm ngoài vòng đai bảo vệ huyện lỵ. Người đàn ông chậm chạp ngừng xe lại trước cửa nhà, nhẹ nhàng bước xuống rồi nhấc chiếc xe lên hiên, đẩy cửa bằng bánh xe trước vào trong căn nhà đầy bóng tối. Tiếng người đàn bà - Ai đó ? - Không có, tôi đây, sao bà không đốt đèn lên một chút… Tiếng bước chân nặng nhọc từ trong nhà vọng ra. Người đàn ông lúi húi mở dây chiếc bao đèo phía sau chiếc xe. Người đàn bà già yếu, da xanh đứng tựa nơi cửa vào nhà trong - Thằng hai nó gửi cho bà ký bôm, thằng nhỏ mới sinh thật ngộ, nó đen, khỏe như cha nó vậy, đôi mắt tròn quay dễ thương hết sức, thằng hai nói sẽ đón bà lên ở với bọn nó, nó la tôi quá trời đất, bọn nó đâu có hiểu gì… Người đàn bà lặng lẽ đón lấy những trái bôm tím ngon lành, hơi thở mệt nhọc, người đàn ông bật hộp quẹt châm lửa vào ngọn đèn huê kỳ nhỏ để trên bàn thờ, ánh sáng vàng úa lan ra căn nhà trống - Bà ăn gì chưa. 79/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Ông ăn cơm với bọn nó rồi hả. - Ừa, ăn cơm sớm, thằng hai còn bận vào trại, tội nghiệp con vợ, người làm không có, trông vào con gái lớn một chút, cái hôm nó sinh may nhờ có người hàng xóm người ta giúp cho không thì đẻ ra nhà , rồi ngày ngày thằng hai phải về mà bới cơm cho vợ, bọn nhỏ thì không có ai coi hết, mình mà ở trên đó được thì đỡ cho bọn nhỏ, thật cực hết sức… - Tội nghiệp… Người đàn bà nói buông thõng, người đàn ông cầm chiếc mũ vải đập đập trên tay rồi móc lên chiếc đinh đóng nơi tường mé gần chiếc bàn lớn dài bằng gỗ đã cũ. Người đàn bà đi ra ngồi xuống ghế - Ông có nói chuyện hồi hôm cho hai thằng nó biết không ? - Có… - Nó nói sao ? - Nó nói mình lên trên đó ở với bọn nó. - Thế còn nhà cửa, còn thằng tư… - Thì tôi cũng nói vậy, nhưng nó nói nhà cửa mà làm gì, còn người còn của, chuyện thằng tư thì… coi như nó chết rồi. - Chết rồi, nó rủa em nó như vậy được sao, đằng nào thì cũng là em nó, tôi thương nó… Giọng nói chùng thấp nhợt nhạt, tiếng thở dài của người đàn ông. Thấp thoáng ngoài cửa bóng ngọn dừa lay động mơ hồ. - Thằng hai nói, chuyện ở trong quận người ta hỏi mình, làm rộn mình một chút là chuyện không thể tránh được, mình ở ngay chẳng hơi đâu mà sợ, nhưng tôi nói, tôi lo cho thằng tư, hồi này đã lâu rồi không thấy nó về, chắc là khó khăn, bà thấy đó, tối đến lính họ nằm ngoài đường lộ, tối không còn nghe thấy chó sủa, không biết hồi này nó thế nào, tôi lo nó chết bờ chết bụi mất xác… - Thời buổi loạn lạc… Người đàn bà đi vào nhà trong, người đàn ông ngồi im một lúc rồi lấy ra hộp thuốc vấn hút, ngụm khói đục trắng lờ lững không muốn tan. Nghe từ xa, ngoài sân có tiếng gà gọi nhau lên chuồng. Đêm đang xuống… 80/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Người đàn bà lấy chiếc tô lớn múc cháo từ trong chiếc soong nhôm ra, màu gạo đỏ lờ, ngọn đèn nhỏ leo lét trên mặt chiếc bàn cũ đã đen lại, gian nhà rộng mênh mông mịt mù trong ánh sáng nhờ nhờ đau yếu… Người đàn ông cài cửa nhà ngoài trở vào nằm trên bộ ngựa lớn nơi góc phòng. Tiếng nhai của người đàn bà chậm chạp rời rã. - Thế bà có tính lên trên đó với thằng hai không ? Không khí im lặng kéo dài, tiếng con muỗi bay quấn vào gần vành tai khó chịu. Người đàn bà ngừng lại, nhìn vào ngọn đèn. Chiếc bóng thủy tinh có những bọt không đều nhau, phía trên khói đã bám đen thành một vòng đều. Người đàn ông bắt tay phải lên trán che hết ánh sáng trên đôi mắt vẫn còn mở lớn không động đậy - Tùy bà, tôi sao cũng được, thật lòng tôi cũng không còn ruột gan nào mà nghĩ, bà tính coi… Người đàn bà theo dõi mấy con muỗi cỏ đang bay quanh ngọn đèn, có lúc chúng đạp vào bóng đèn nóng loạng quạng một lúc rồi lại tiếp tục bay vòng quanh… Người đàn ông kéo chiếc ghế dài lùi xa chiếc bàn một chút, rồi ngồi xuống, người thanh niên mặc quần màu lục sẫm cắm cúi đọc tờ giấy bỏ trên bàn lúc lâu mới ngẩng lên người đàn ông trước mặt, tóc cắt cao không chải, có những ngọn tóc dựng đứng, hai bên tóc mai những sợi bạc, nước da xám, những vết nhăn, đôi mắt kèm nhèm, chiếc áo bà ba đen đã cũ, chiếc khăn ca rô vắt trên vai nhàu nhượi, hai bàn tay khẳng khiu bỏ trên mặt bàn và cái nhìn lơ đãng - Bác còn cậu con đi theo Giải phóng phải không ? - Dạ, nó là thằng tư, thằng con trai út của tôi. - Anh ấy đi hồi nào vậy ? - Có hơn hai năm, hồi quận chưa có. - Lâu nay có về nhà không ? - Dạ không. - Bác cứ nói thật đi, không sao đâu, tôi muốn bác nói anh ấy nên về chiêu hồi đi, về làm ăn không sao cả… - Dạ, lúc trước nó về tôi có nói, nhưng không được, vô chồng tôi coi nó cũng như chết rồi… 81/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Sao bà con lối xóm nói mới đây anh ấy có về thu thuế mà, tôi hỏi thật bác, nếu anh ấy có trốn trong nhà thì bác không nên giấu chúng tôi… - Chết, đâu có, lúc trước cũng có đôi lần nó về, về ban đêm chốc lát rồi đi, khổ lắm ,về thì chỉ thấy xin tiền bạc mà vợ chồng tôi thì có gì nữa, ruộng vườn bỏ cả, vợ chồng tôi cũng tính lên hẳn trên quận ở với thằng hai trên đó, nó làm việc trên quận, chắc ông biết… - Dạ, chúng tôi có biết bác có người con cả làm việc ở trên. - Hồi trước nó xuýt chết vậy đó ông, trước đây nó về thăm tôi, vừa ra khỏi nhà thì mấy ông du kích ập vào bắt nói nó làm mật thám cho đế quốc, mấy ông ấy cũng bắt chúng tôi phải kêu nó về với nhân dân, với giải phóng… vợ chồng tôi thì già, sinh con ra lớn lên bọn nó làm gì thì làm chúng tôi nào có biết, ông nghĩ coi, rồi sau đó tôi được biết giải phóng kết án tử hình nó, từ đó tôi đâu có dám cho nó về, ông tính… đó là những khuôn mặt dữ dằn, tiếng nói quen thuộc, quần áo nhem nhuốc, bất chợt có mặt và mất đi thật nhanh trong đêm tối thanh vắng, kẻ bị bắt được nói cho đi học tập, hoặc được mang ra ngoài vườn sau và một mũi dao nhọn thích vào bụng hoặc một tràn đạn nổ vào ngực, con ông Năm trong xóm được mời đi học tập, hai hôm sau thấy xác nổi trôi tấp vào bờ sông hai tay bị trói giật sau lưng… - Bác nên khuyên anh ấy về, không thì e khó sống được nếu còn quanh quất ở đây, bác biết tên xã ủy không, hắn bị hạ rồi, hôm đó bọn tôi nhanh thì con bác cũng bị hạ, may thoát. Bác biết chúng tôi về đây để giữ cho làng ấp được yên, bác coi hồi này đâu có bị phá rối, thu thuế, thu thóc như trước. - Dạ, cũng nhờ mấy ông… - Mong bác ráng khuyên anh ấy, nếu không được khi nào anh ấy về bác mật báo cho chúng tôi. - Dạ, nhưng tôi chắc nó cũng chết rồi. - Không đâu anh ấy còn sống, người ta còn nhận được mặt anh ấy mà, bác không nên che chở đứa con hư ấy nữa. Và bác cũng đừng tiếp tế cho họ, nếu không bác cũng liên lụy, chúng tôi biết bác là người làm ăn lương thiện, chúng tôi cũng biết con lớn của bác mà. - Dạ, cám ơn mấy ông hiểu dùm cho vợ chồng tôi. Người thanh niên mở xấp giấy lấy ra một bức hình đưa về phía người đàn ông 82/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Bác có nhận thấy mặt con trai bác không, đó, anh ta vác khẩu súng nơi vai, người đứng giữa là tên xã ủy chúng tôi mới hạ được, còn tên này nữa, nó là bí thư xã, nó đã bắn mấy người ở trong xã, chúng tôi đang tìm hắn, bác nhận mặt rõ chưa, nếu gặp hắn thì bác báo ngay cho chúng tôi và đừng bao giờ chứa hắn, hắn đã giết người. - Dạ… thằng tư mặc đồ bà ba đen, đầu trần, vai khoác khẩu súng ngắn gọn, nó đang tươi cười bá lên vai tên bí thư, tên giết người, sao hình này hồi nào mà trông nó khỏe và trẻ quá, sau này nó gầy đi nhiều mà có thấy nó mang súng như vậy bao giờ đâu . Người đàn ông ra khỏi nhà hội đồng lúc mặt trời đã đứng bóng. Nhấc chiếc xe đạp quay đầu ra ngoài rồi nhẹ nhàng leo lên và đạp ra con đường đất để ra con đường liên tỉnh. Khi chiếc xe vào đến sân, ngừng lại dưới hiên để nhấc chiếc xe vào nhà, người đàn ông nhận thấy hai chân hơi run và ù nơi hai mang tai, những giọt mồ hôi chảy ròng ròng xuống cổ. Buổi trưa im vắng và nồng… Người cha ngồi hút những hơi thuốc đầy, nhìn lơ đãng vào khoảng không. Người con ăn, nhai vội vã, bàn chỉ còn một mình người con với chén bát ngổn ngang của những người đã xong bữa. - Thôi ba đừng nghĩ gì cả coi như không có thằng tư…Nào đâu mọi người không nghĩ đến nó. - Nhưng đằng nào thì nó cũng là em mày… - Vậy bây giờ bảo con phải làm sao ? Thời buổi mà anh em phải bịt mặt mà giết nhau. Hồi về nhà may mà con không bị bắt, nếu không thì ba tính… bây giờ con muốn ba lên ở luôn trên này với bọn con, thế là xong, nhà cửa thì nhờ bà con đưới vậy… - Nhưng má con không muốn đi, bà ấy thương nó… Người con bỏ chén bát đứng lên khỏi bàn ăn. Người cha vẫn ngồi im nhìn lơ đãng trên mặt bàn. Người con đi xuống nhà mang lên hai ly nước trà, một ly cầm nơi tay, một ly để trước mặt người cha. Khi đi làm trở về người nhà đưa cho một lá thư, nét chữ quen của người em ruột Mặt trận đã tuyên án xử anh, mong anh hồi tâm trở về thì sẽ được khoan dung, nếu không thì em cũng không thể cứu được anh. Cùng với phong thư có kèm theo trái lựu đạn đã thối . - Con nghĩ chắc thằng tư cũng không còn ở trong vùng nữa, bây giờ đâu có dễ gì mà lọt được trở lại vùng bình định, ba má còn ở lại cũng không 83/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày giúp được gì cho nó đâu, mà ba má thì già rồi, mình lên trên này hồi nào yên hẳn thì về, nhà cửa ruộng cườn còn đó chứ ai lấy đi được mà lo. - Thôi được rồi, để ba thu xếp, nhưng con có cách nào gọi nó về được không ? - Cách nào, biết nó ở đâu mà tìm, mà gặp nói nó nó chịu về không, thì ba má cũng đã nói với nó rồi. Nhà mình ba má được hai đứa, giá yên bình thì con cũng ở nhà làm ăn chứ có sao, nào đâu phải con xung phong đi lính, lệnh thì đi, cũng may là con chưa phải cầm súng mà đi kiếm nó, nó có số phần của nó… Con chỉ lo nó quanh quẩn đâu đó Người cha uống một ngụm nước, đứng lên dời khỏi bàn ăn, tới ngả lưng xuống chiếc ghế vải ở bên cạnh tường. Người con vặn máy thu thanh, tiếng hát vang lên đầy căn nhà rộng… Người con ngồi xuống chiếc ghế thấp cầm lấy tờ báo đọc. Đứa trẻ sáu tuổi từ trong nhà chạy ra lăn vào lòng người con. Người con bỏ tờ báo xuống - Thôi mà, làm nũng gì đây nữa, lại chơi với nội đi, thôi mai theo nội về vườn mà ăn trái cây, mùa này có vú sữa rồi đó. Đứa trẻ nằm im mở mắt nhìn nghiêng tới ông nội nó đang trầm ngâm hút thuốc. Người con vuốt tay lên đầu đứa trẻ… Người đàn bà từ trong nhà đi ra - Ba vào trong giường nghỉ trưa cho khỏe. - Thôi ba nằm ngoài này cũng được, chút ba về rồi. - Mai ba lên ? - Ừa để xem đã, còn nhà cửa ở đưới… - Hay để mai con xuống đón ba má luôn thể, mình kiếm một chuyến xe lam, còn đồ đạc lếch thếch, má thì yếu… - Con khỏi lo, con đi về rồi ai coi bọn nhỏ cho, ba khỏe mà lo chi. Người đàn bà bế đứa nhỏ dỗ nó đi ngủ, người đàn ông vuốt tay lên má nựng nó giọng ngọt ngào. Đứa nhỏ bị nhột cười khích khích khi người đàn bà bế nó vào trong nhà. Không khí căn nhà trở lại im vắng. Buổi chiều người đàn ông đạp chiếc xe chậm chạp vượt qua cây cầu chiếc xe không chạy thẳng, vòng xuống phía dưới, gần với bờ sông, chiếc xe chạy chậm chạp, người đàn ông chú ý tới những băng vải viết chữ căng ngang, những tờ truyền đơn rải bay trên đường đi, và những bích chương 84/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày màu dán nơi thân cây bờ tường gần nơi hội đồng xã, nơi đó có một vài người qua lại. Người đàn ông ghé lại nhà một người quen, khoảng sân đất rộng, ngôi nhà tôn thấp. Một người đàn bà từ trong nhà đi ra - Chú lại chơi. - Anh có nhà không thím. - Nhà tôi xuống dưới xóm, người ta tìm thấy xác vợ ông hội đồng hồi trưa, thật tội nghiệp… - Ở đâu vậy ? - Ở ấp bên, nhà của ông gì đó, trong vườn, dưới một cái hố, trời ơi, nhà tôi nói trông mà phát khiếp vậy đó chú, họ cho ngồi xuống rồi đập đầu cho vỡ và đậy lên trên mấy miếng gạch xi măng, sao chết đã lâu mà chưa gì hết, còn chân thì xơ ra và quần thì bị rách lên tận thắt lưng, thật là tội… - Sao mà tìm được vậy ? - Nghe đâu có người hồi chánh ở đâu đó nghe chuyện biết được nên chỉ cho quận, quận liền theo đó mà tìm. Trong đêm tối môt tốp người vào nhà gọi cửa bắt đi, bà ta không chịu đi, họ lôi đi, hai người mỗi người giữ một tay kéo đi, mặc tiếng kêu khóc vang lên cả ấp không ai dám mở cửa ra ngoài, rồi mất tích… - May mà còn tìm được xác, ông bà ấy từ xưa đến nay ăn ở cũng đường hoàng có gì đâu, chẳng biết có thù oán gì với ai không ? Ông bà ấy chỉ có một người con đâu ở trên Sài-gòn. Người đàn ông như nhớ ra mình vẫn còn đứng dưới sân với chiếc xe đạp, ông từ từ đẩy chiếc xe vào gần nhà dựa vào tường rồi bước lên hiên - Tôi tính sang nhờ anh chị coi giúp cho cái nhà, tôi đưa bà ấy lên trên với thằng hai, - Bao giờ chú đi. - Thủng thẳng ít bữa, đồ đạc thì cũng không có gì, nhưng cái nhà thì ráng giữ cho nay mai yên ổn thì về có chỗ mà ở, thằng hai nó nói quá chứ tôi không muốn đi. - Dạ. Người đàn ông đứng yên ngó nhìn những ngọn dừa xanh vượt lên trên bầu trời cao, buổi chiều êm ả không có gió. Một chiếc máy bay xuất hiện ở trên cao. Lúc sau người đàn ông xuống hiên đi vòng quanh khoảng 85/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày sân ngó lên những ngọn cây ăn trái, những luống rau trồng ngoài vườn, khi trời đã sẫm người đàn ông đạp xe trở ra những con lộ về nơi ngôi nhà mái ngói. Bóng tối xuống chậm… Khu vực ngoài thị trấn lúc trước có một thời rất đông dân cư, đời sống khá sung túc, vườn tược sau thời gian chiến tranh canh tác trở lại, những ruộng bỏ hoang bắt đầu những vụ lúa mới, nhưng thời gian ấy kéo dài không lâu, chiến tranh trở lại, có lúc khu vực như hoàn toàn kiểm soát của thế lục mới, dân chúng không chịu được chiến tranh kéo sát bên mình một cách thường trực nên bỏ đi làm ăn xa tùy theo phương tiện và hoàn cảnh cho phép, tuy nhiên có một số người chỉ biết ruộng vườn thì buộc phải giữ lấy cuộc sống vẫn có, có người đã dời gia đình ra nơi căn nhà làm bằng đất ngoài đồng trống để tránh tai họa. Chậm rãi theo thời gian, số người sống mỗi lúc một hao mòn, số người đi xa cũng nhiều thêm, những trẻ nhỏ tha thẩn ngoài ruộng bùn với những bàn tay chai cứng, trong căn nhà tối chật hẹp chỉ còn những người già cả… Thôn xóm mang theo khuôn mặt buồn hiu. Có lúc người ta dửng dưng không còn xúc động với những cái chết. Những cuộc hành quân mở ra với từng đoàn xe nối nhau trên con đường liên tỉnh thỉnh thoảng xáo trộn đời sống bình thường của dân chúng, những trẻ nhỏ đứng ra dọc bên đường với những người lính lạ… Dần dần an ninh được vãn hồi, dân chúng lại làm ăn, một đôi người ở xa trở lại thăm nhà cũ, và đã có một hai chuyến xe lam chạy nối khu vực với quận ly ở trong, và những phiên chợ bắt đầu đông hơn xưa… Nhưng ban đêm tới vẫn là những lời đe dọa không chừng, có những tiếng súng đánh thức người dân đang ngủ với nỗi lo âu bứt rứt thường trực… Buổi sáng bắt đầu với vẻ nhạt nhòa, người chồng ra sân đứng nhìn toán nghĩa quân đi lích trở về chậm chạp ngái ngủ mang theo ba lô, ít bó rau, ít trái cây, họ đi dọc theo mép con lộ về phía cây cầu, bóng chiếc trực thăng, đang bay vòng quanh ở phía nam, tiếng động nghe xa rời. Chiếc xe bò chở lá dừa chậm chạp lăn bánh với tiếng kêu khô khan và ngắn. Một người đàn bà gánh rau đang đi xuống phía nhà hội đồng. Nắng sáng trong nhảy nhót trên những cành lá xanh. Người chồng thở dài ngồi xuống nhìn cây vú sữa trụi lá giơ những cành khô lên trên trời… Mấy tháng trước hai vợ chồng già chợt ngỡ ngàng nhìn nhau khi thấy những cành lá trên hầy hết những cây ăn trái trong vườn bỗng vàng và đổ xuống không đúng mùa. Người ta nói bị ảnh hưởng bởi thuốc khai quang từ vùng trong theo gió trở ra. Sau đó, mùa mưa trở lại, cây cối phần lớn hồi phục với vẻ èo oặt, chỉ có cây vú sữa là không ra lá cành khô đen , mỗi ngày người chồng ra bấm vào vỏ cây thăm dò và sau chót thì người chồng lắc đầu nói với người vợ nó chết rồi… Người chồng đi vào nhà mang ra cây dựa lớn và bắt đầu đốn cây vú sữa, thân cây cũng không lấy gì làm lớn, người vợ từ trong nhà đi ra, ngồi 86/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày xuống hiên mát nhìn người chồng bổ từng nhát chốc chốc ngừng lại nghỉ - Ông còn đốn làm gì nữa, khô rồi , mặc nó, sức đâu… - Trông cái cây khô tôi khó chịu, đốn nó đi cho những cây chung quanh nó lớn, thế là nhà mình không còn vây vú sữa nào nữa, tôi còn tiếc cái cây năm trước bị bão… - Để mình trồng mấy cây khác, thứ này không chịu được thuốc khai quang, chỉ một chút cũng khó sống… Nhưng trồng rồi có được ăn trái không ? - Mình không ăn thì con cháu nó hưởng, bà thì thật… - Thế ông tính bao giờ mình lên với thằng hai… - Bây giờ bà giục tôi, thì để vài bữa nữa, sao tôi cứ thấy bứt rứt không yên… Người đàn ông tiếp tục đốn cây vú sữa, mỗi lần chiếc dựa ăn vào thân cây, cây vú sữa lại khô lại rung lên, một vài cành nhỏ mục rụng xuống lần đất ẩm… Người đàn bà cầm chổi quét khoảng hiên nhỏ hẹp, bầy gà con quanh quẩn dưới chân chạy theo sau người đàn bà vẻ quấn quýt. Nắng còn bỏ lại khoảng mát lớn trên chiếc sân vuông vức. Liên tiếp những nhát dựa chặt vào thân cây, cho tới khi đã mệt người đàn ông nhận thấy chỉ mới được nửa thân cây. Ông ta dùng hai tay cố sức rung nhưng thấy vẫn còn chắc, ông ta bỏ vào lấy nước uống và ngồi nơi hiên vấn thuốc hút. Người vợ đứng ngoài sân - Ông viết thư cho thằng tư ra sao ? - Tôi gửi cho nó ít tiền, nói nó về, tôi cũng gửi cho nó giấy thông hành đã hỏi kỹ người ta rồi, có một thằng bạn nó cũng mới bỏ ngoài ấy về trình diện đây… - Chết, rồi nếu người đưa thư ấy không kín… - Người tôi gửi tín cẩn lắm, bà khỏi lo, nhưng thật tôi không hy vọng, nó là thằng cứng đầu… - Tôi lo cho nó… Người đàn bà quay mặt đi, không khí đã rời rã, người đàn ông nghỉ ngơi một lúc rồi ra đốn tiếp cây vú sữa, lúc cây khô ngã xuống thì bóng mát trên sân cũng đã thu hẹp lại. Một người đàn bà từ ngoài hớt hải đi vào gặp ông 87/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày - Bác ơi, bác đi theo cháu coi… Người đàn ông ngó lên, nhăn mày - Gì vậy cháu ? - Bác đi theo cháu coi xem có phải thật không, người ta vớt được một cái xác chết, có ngưới nói trông như anh tư nhà bác… Người đàn ông đứng bật dậy, người đàn bà từ trong nhà đi ra. Người đàn bà đứng dưới sân nói - Có lẽ người ta nhìn lầm… - Thằng tư… Người đàn ông vội vã đi xuống sân ra phía cổng, người đàn bà đi theo, người đàn ông quay trở vào lấy chiếc xe đạp ra hiên, nhưng lại dựa chiếc xe vào tường rồi vội vã đi - Bà ở nhà, tôi ra coi, thằng tư… Người đàn bà ngồi xuống hiên nhà ôm mặt khóc. Người đàn ông vừa đi vừa chạy. người đàn bà theo sau tức tưởi. Đám đông tụ lại nơi bờ sông, gần nơi nhà hội đồng, toán nghĩa quân lố nhố ở bên, người đàn ông rẽ đám đông vào trong, một xác chết ướt sũng nằm trên bờ cỏ, tờ giấy báo phủ lên mặt, bộ quần áo đen ướt nhép, bàn chân cứng chỉ lên trời đã chương. Người đàn ông cầm tờ báo bỏ ra, đầu tóc bù xù, miệng há lớn phơi ra hàm răng trắng hếu, dấu đạn khoan thủng một miếng nơi bả vai bên trái gần với cổ, người đàn ông đây vội tờ báo lại. Người đàn bà đứng sau, đám người im lặng , người đàn bà nói nhỏ - Phải anh tư không ? - Thằng tư nhà tôi… - Trời ơi tội nghiệp… Người đàn ông không nói, mặt bình thản chậm chạp quay ra đi trở lại con đường về nhà. 1970 Truy tìm kẻ mất tích 88/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Tôi trả lời vâng tôi đã nghe rõ, rất cảm ơn ông tôi sẽ đi ngay bây giờ. Nói xong tôi chờ đợi tiếng trả lời, nhưng rất lâu tôi không nghe thấy tiếng nói nào nữa. Một tiếng cụp trong ống nghe, tôi hiểu người đó đã bỏ máy điện thoại xuống. Tiếp theo là những tiếng u u. Tôi nhìn đồng hồ, 6 giờ thiếu 15 phút. Sao không phải 6 giờ, thật là phiền. Có lẽ nó bị bắt vì thiếu giấy tờ. Sau khi gửi được cái xe gắn máy, chúng tôi đứng xếp hàng chờ đợi đến lượt mình, nhưng đến khi tôi và nó đến được trước khung cửa sổ, người đàn bà nhìn chúng tôi, đưa tay ra nhận hồ sơ, bà ấy lật đi lật lại hỏi giấy khai sinh đâu. Tôi bực dọc trở ra. Trước khi đi chính tôi đưa cho nó, căn dặn nó nhưng tới nơi thì nó đã bỏ quên. Nó vẫn thường hay quên như thế. Chắc nó mới thay chiếc áo mới. Hôm qua nó đi kiếm đâu được một chiếc áo thung, nó khoe tôi, chiếc áo không có túi gì hết, nó lại thích mặc quần ống chật. Trông cậu cao bồi lắm đó nghe, hôm nào cảnh sát hốt cho coi. Cái thằng nó lại làm phiền mình. Để hốt đi lính cho rồi. Trốn tránh gì được, đằng nào mà không phải đi, còn giặc vài chục năm nữa cho coi. Ở lại mà sống một mình, sống như con chuột chù sao. Ơ nhưng cái người gọi điện thoại đó là ai vậy. Thật là ngu, sao mình không hỏi cho rõ gì hết. Nó bị bắt lúc nào, ở đâu, hiện bị nhốt ở đâu ? Tôi để lại cái điện thoại cho ngay ngắn trước mặt, những người trong phòng tôi đang bỏ giấy tờ vào trong những ngăn kéo, người thư ký khóa những tủ lại. Người thì đánh phấn, kẻ môi, người chải tóc, người đứng lên ra phòng đi tiểu, người lau kính đeo mắt, những chiếc cửa sổ được đóng lại. Ăn cho mau già và già mau chết. Chắc nó bị bắt thật rồi. Tôi thấy nháy trên mắt trái. Máy mắt ăn xôi, máy môi ăn thịt, máy đít ăn đòn, máy… Cái đầu nghĩ toàn chuyện tầm bậy. Phải đi tìm nó, xem nó ở đâu, giờ này chiều rồi, mấy nữa mà tối, bị giữ lại e đói và chắc là mong tôi. Mẹ tôi nói có mấy chị em phải thương yêu nhau. Mẹ tôi có những sợi tóc bạc thật mềm, khi mẹ tôi chết bà chỉ nói với chúng tôi thật vắn tắt nhưng tôi không quên những giọt nước mắt chảy trên đôi má nhăn nheo. Tôi theo bà nội sờ tay lên chân, lên bụng theo với sự lạnh toát của thân thể mẹ tôi, khi mẹ tôi lạnh tới cổ thì mẹ tôi nấc lên và nhắm mắt lại chậm chạp. Mẹ tôi đã chết. Chị tôi khóc òa, thằng em ngủ vùi trong lòng chị tôi, nó còn quá bé chưa biết gì. Bây giờ thì nó đã đi lính rồi. Trước khi nó nhập ngũ tôi đã nói chuyện với nó. Nó hỏi tôi đủ điều, nhưng tôi nói với nó rất ít, có một điều tôi nhắc lại với nó, có nhiều cái người ta không học được, bây giờ người ta hô một hai cho mình đi mà đi không được sao. Không có gì hết, người ta sao ta vậy, cứ theo mà làm… Khi đi thì kiếm cái quần rách nhất mà mặc, vào đó có quần áo người ta phát cho rồi, mang theo bàn chải đánh răng, thuốc đánh răng, bỏ trong túi, thuốc hút, ít tiền lẻ thế là đủ. Nó vào quân trường, khỏe ra, trong nó bé nhỏ trong bộ quân phục, nó sinh năm đói, rồi giặc giã liên miên khiến nó nhỏ thó và thấp, mỗi tuần tôi gặp nó hỏi cần gì không, nó thường nói không, đôi lần nó hỏi tôi ít tiền lẻ uống la de những buổi đi bãi. Rồi nó thành một sĩ quan. Hồi trước nó mong thành một ông giáo, sau nó lại bỏ vì nghĩ mình không có tướng oai, nó nghĩ một 89/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày ông giáo trông phải có thớ một chút, nó sợ học trò bắt chẹt nó. Trông nhỏ quá không ra ông giáo gì hết. Hồi còn đi học nó kết bạn thư từ với cô sinh viên Thụy-điển, nó đưa hình cho tôi coi, cô bé xinh xắn, nhưng tôi nghĩ chắc nếu hai đứa đứng bên nhau thì nó cao nhiều nhất đến vai cô bé, nghĩa là thua ít nhất một cái đầu, tôi nói điều này với nó, sau tôi không nghe nó nói gì về cô bạn của nó nữa. Nó bị bắt thì cái xe gắn máy nó để ở đâu. Nó vốn giữ gìn xe của nó rất cẩn thận, tôi thì cười nó. Hầu ai chứ lại hầu một khối sắt thì tôi không hầu. Có người giữ xe cộ hơn giữ vợ con, nào lau chùi, đánh bóng, nâng niu, trùm áo cho nó nữa. Nhiều lúc còn bắt cả vợ con phải hầu xe, nhiều lúc xúm lại đẩy cho tới toát mồ hôi mới nghe, ai làm xây xát chút đỉnh là nhăn nhó càu nhàu, ai mượn thì khó chịu. Tôi không chịu được những cái đó. Cái đống sắt ấy. Tôi nhắc điện thoại lên, theo cuốn sổ tôi lần lượt gọi điện thoại cho các quận cảnh sát. Thưa ông, tôi là Nguyễn Văn B., tôi muốn biết tin của em tôi, nó mới bị bắt. Dạ không có. Thưa ông tôi là Nguyễn Văn B., tôi có đứa em bị bắt. Bị bắt ở đâu. Dạ không rõ. Ông giỡn với tôi sao ? Tiếng cụp trong điện thoại. Cái thằng cha này hách quá. Thưa ông, có phải quận cảnh sát không ạ. Không, đây là tổng nha. Tôi là Nguyễn Văn B., tôi có đứa em bị bắt, tôi muốn biết tại sao nó bị bắt. Bị bắt hồi nào. Dạ, tôi không rõ. Thế tên nó là gì. Dạ nó là thiếu úy Nguyễn Văn B., có lẽ nó bị bắt vì trốn quân dịch. Xin ông liên lạc với quân cảnh, mặc giả quân phục lại đeo lon nữa thì chắc bị nhốt chờ ra tòa rồi. Tôi bỏ điện thoại xuống. Thôi phải đi tìm nó mới được. Mọi người đang lần lượt dời khỏi phòng. Tôi sửa lại quần áo cho ngay ngắn, lau kính đeo lên mắt. Bỏ ghế vào trong gầm bàn. Nhìn lại chiếc bàn bỏ trống, chỗ ngồi thật tôi chưa bao giờ được nhìn tôi một cách đầy đủ, chỉ là một chỗ bỏ không. Chiếc ghế lắc lư, cái đầu cúi, cái lưng hơi gì xuống, chiếc bút trên tay, những tờ giấy trước mặt, trên bàn, cuốn lịch mỗi ngày được lật qua, những chiếc bút xanh đỏ sau một thời gian được thay ruột, nhưng hồi chuông điện thoại, những nụ cười xã giao, những cái bắt tay nhạt nhẽo, những bữa cơm và những điếu thuốc. Rồi chiều đến, đứng lên, xuống thang gác và ra đường với những chai bia… Thật là những người điên. Trời đẹp thế kia sao không ra đường đi thăm một người bạn, gặp người tình, dẫn vợ con đi chơi. Thật là điên quá lắm. Chắc là nó bị bắt ở quận nhất rồi, cái chỗ đầu đường đó lúc nào cũng có cảnh sát hết. Những tay trốn lính đều biết rõ, chẳng bao giờ điên mà ngang qua đó. Cái tiếng còi hút lên nghe mà ghê. Cái thẻ căn cước cho đàng hoàng đừng có vẻ gì cũ, nếu không là phiền. Cái giấy hoãn dịch, cũng đàng hoàng, muốn cho chắc thì mang đi mà ép nhựa cho khỏi rách, khỏi nhàu mà giữ được lâu, nào đâu phải có một cái giấy gì, nhiều khi là cả một tập hồ sơ công phu, mất nó là không ăn không ngủ được. Cái giấy chẳng là gì nhưng nó chứng nhận là một kẻ làm người. Nếu không… Xin được một cái giấy, hay được cấp một cái giấy thật bằng được trao một cái sắc phong làm Thành hoàng của vua Bảo Đại. Người cảnh sát dẫn nó vào trong sân ngang qua chiếc cổng sắt có bót gác kiên cố. Một người lính đội mũ sắt hờm súng 90/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày trong lần mắt cáo kẽm. Nó sẽ đẩy chiếc xe vào trong căn nhà tôn. Nó sẽ được dẫn vào chiếc phòng giam tạm thời, rồi nó sẽ được hỏi đến. Tôi đã nói nó nhiều lần, đi đâu phải có giấy tờ cẩn thận. Chẳng sao hết nhưng cực thân. Căn phòng những người ngồi dưới nền xi măng, đủ thứ người hết, mùi nước tiểu, mùi khói thuốc, những góc phòng nhớp nháp. Đêm xuống muỗi kêu vo ve, nền xi măng cứng nằm không ngủ được. Rồi những tiếng nói, tiếng chửi tục tằn, ngọn đèn vàng úa cháy suốt đêm. Tôi bước ra khỏi phòng cuối cùng. Đóng cửa. Hành lang hẹp vắng ngắt như không có một bóng người. Cầu thang trống trải. Những hạt mưa nhỏ trên vũng nước giữa sân. Tôi châm một điếu thuốc. Chiếc hộp quẹt với con rắn cuộn. Người tình phụ đã có ba đứa con. B. nói với tôi, em biết anh không lấy em, em thì già rồi. Tôi mua hai cái kem, cho mình một cái, cho con nàng một cái, chúng tôi dắt tay nó đi trên con phố đông người. Mưa thế này thì còn lâu mới tạnh. Người bạn cùng tôi bước xuống sân, tôi nói đi đâu. Về nhà, ông đi đâu. Về nhà. Tôi nói tôi tìm thằng em bị bắt. Người bạn nói, mình đi uống bia đã đi. Tôi nói đâu có được, đám cưới của thằng bạn thân này không đến không được, nó chửi mình. Hồi xưa mình với nó đánh cuộc nếu đứa nào lấy vợ trước thì mất một con heo quay. Bây giờ nó thua rồi, tí tuổi đã cầm lòng không đậu thì còn làm việc lớn gì được. Bọn bạn mình có vợ hết trơn rồi, có lẽ rồi mình đến làm rể một tên nào đó. Trới thấp với mây xám. Trời này khiến nhớ vị hôn thê. Anh muốn đến đưa em đi dạo, anh sẽ hôn em, nhưng em ở xa, nếu anh là gió bay đến cuốn quyện lấy em, nếu anh là cánh lá rơi chạm vào má vào môi em, nếu anh là… Người bạn nói, trời thật tuyệt. Thằng em tôi đứng dựa bên xe ngay cửa, nó nói tới đón anh về. Tôi nói thôi về trước đi, anh đi chơi chút nữa về, nói nhà đừng chờ cơm. Nó đẩy xe vào trong lề rồi lôi đồ nghề ra tháo chiếc xe, nó loay hoay với cái xích rồi lại đạp, lại đạp, chiếc xe chẳng chịu nổ gì cả. Tôi đứng bên người bạn chờ xe, xe cộ ngang qua không ngớt. Con nhỏ mặc váy ngắn quá, trên chiếc xe chiếc váy cuốn lên tận đùi non trông mà sướng mắt, nhưng cái đầu gối thì như quỳ bái nhiếu quá. Cái bọn quỷ đâu có vừa gì. Tiếng máy xe nổ thật là giòn, tôi ngó lại. Thằng nhỏ cười hở cả hàm răng sún, mặt nó nhem nuốc dầu mỡ, ông coi, tôi là thợ sửa xe lành nghề mà, ông có thể đi được rồi. Tôi nói, cám ơn, tôi không biết đi. Nó có vẻ không bằng lòng. Chiếc xe lam ngừng lại, chúng tôi leo lên, tới dọc đường chúng tôi nhảy xuống. Cô bạn nói với tôi, trông anh hồi này gầy, già đi và có vẻ buồn. Tôi nói, thằng em tôi nó bị bắt. Cô bạn cười rất vui nói tôi mừng anh có ý lập gia đình. Tôi nói làm thế nào được ai tránh khỏi cái chết. Tôi nói nó chọn ngành lái xe chẳng hạn, nó không chịu, nó muốn làm lính chiến đấu. Cô bạn nói anh đi ăn cưới người bạn cuối cùng sao. Tôi nói không, tôi còn nhiều bạn độc thân lắm, bọn bạn tôi con rơi con vãi tùm lum à, tôi cũng định đi làm vườn ở trên cao nguyên nhưng hồi này đi không được, máy bay họ không chịu chở theo cho tôi mấy con trâu để cày, họ viện cớ sợ trâu nó ỉa đái trên máy bay, hơn nữa hành khách bây giờ hung tợn lắm nếu mang bò lên máy bay họ sẽ hùa nhau làm 91/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày thịt ăn, bây giờ hãng máy bay tặng rượu cho hành khách mà không chịu tặng đồ nhậu. Tôi đã thấy họ cùng nhau làm thịt con mèo. Cô gái cầm cái đuôi mèo nướng vào ngọn lửa, thoáng chốc cháy hết lông còn trơ lại một đoạn ngắn trông như que củi, cô ta bỏ vào miệng nhai nghe giòn tan. Tôi nói cô có kẹo không. Cô gái nói còn, tôi mời ông. Kẹo gì mà ngọt quá. Tôi phát ho vì cái kẹo. Anh bạn kéo chiếc ghế sắt lui vào phía sau, chúng tôi cùng ngồi ngó ra ngoài mặt đường. Hai chai bia, bọt sàu trong chiếc ly trong vắt. Chai bia thứ hai. Cục đá quá lớn. Cao tay nâng chén rượu nồng… Lúc tôi bước vào, phòng tiệc đã đông người. Phải thế chứ, bỏ không đi đám cưới vợ chồng nó lại giận mình. Mình còn cam kết sẽ kết sui gia với nó nữa. Nhưng này đừng có quên con bò quay đó nghe. Ông bà cụ thân sinh của nàng niềm nở đón tôi khi vừa tới giữa phòng. Tôi được mời ngồi chung với những bạn bè của nàng, thấy tôi tới nàng vội vàng đến bên. Nàng cầm lấy tay tôi cám ơn, chúng tôi cụng ly với nhau. Mọi người chúc tôi hạnh phúc. Những ly rượu mạnh được rót liên tiếp cùng những món ăn. Chúng tôi nói tới tình hình chiến tranh. Một anh bạn chợt òa khóc khi báo tin với chúng tôi vợ anh ta vừa tử trận ngoài tiền tuyến. Một anh ngồi bên đứng lên hát bài Khỏe vì nước một cách hùng hồn và chúng tôi vỗ tay theo. Nàng nói anh yêu em không. Tôi gật đầu. Nàng nói anh có phụ em không. Tôi gật đầu. Nàng nói anh có thấy mình hạnh phúc không. Tôi gật đầu. Nàng nói em muốn chết. Tôi nói thật tuyệt diệu. trời đẹp quá. Chiếc ly rơi khỏi mặt bàn, tiếng thủy tinh vỡ giòn tan trên nền gạch, người bạn nói cậu say rồi sao. Tôi nói say quá đỗi, cho tôi chiếc ly khác đi, tể tướng. làm tướng gì mà trông như tên hầu rượu, một tên hầu rượu hạng tệ. Buổi sớm hồng một ngày tươi sáng được báo hiệu, những cơn gió thoảng qua với hơi nước mát rượi, tiếng lá lao xao trên ngọn cây, những phiến lá xanh non như ngọc thạch. Em gửi cho anh bông hồng nồng nàn nhất của mùa hạ. Khi muốn nhìn thấy mắt chàng nàng phải xoay tròn chiếc mũ. Đỏ bầm đầy bụi. Che kín ngang mày. Dưới đó chong hoài đôi mắt. Đen buồn như mắt nai. 1 Buổi chiều làm cho mình nhớ người tình, thôi đổi rượu đi. Người bạn cầm những chiếc ly trên bàn vút cao lên không trung, những chiếc ly mất tăm trong đó. Hai chiếc ly cao cổ hiện ra trên mặt bàn son rực rỡ, màu rượu chát thân mật, chúc em hạnh phúc, tiếng cụng ly reo vui như tiếng dương cầm trong đó trong đó những bước chân chim nhảy nhót trong buổi sáng ngọt ngày phục sinh. Tiếng vỗ tay vẫn còn vang lên, và tiếng khóc của người chồng bất hạnh lẫn trong đó nghẹn ngào. Tôi nói xin chia buồn cùng anh. Nàng hiện ra bên, để tay lên vai tôi, nghe chừng nàng đang hát. Mọi người đứng dậy cùng với điệu nhạc và cuộc dạ vũ bắt đầu, mọi người mang những mặt nạ màu sắc rực rỡ. Nàng cầm lấy tay tôi, chúng tôi dìu nhau tan trong đám người và những âm thanh êm dịu. Em mơ ước chúng ta được sống trong những thung lũng với hoa và cỏ, những ngọn đồi mây thưa và cây thấp dưới chân mình, ở đó tiếng suối reo vui như một bản hòa tấu không ngừng cùng với tiếng gió trong rừng và tiếng chim muông ríu rít 92/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày hân hoan , chúng ta sống một ngày cho một đời. Người bạn đã bỏ đi từ lúc nào. Trên bàn gỗ chỉ còn lại chiếc ly độc nhất của tôi. Tôi giơ tay kêu rượu. Người hầu bàn tiến đến, màu rượu vàng xanh bọt nhỏ và trong vắt. Men rượu nồng nàn. Anh muốn được ngủ trong rừng tóc nồng của em. Có phải tình yêu là cuối cùng của ước mơ nên bão tố cũng từ đó mà dấy lên ? Rượu, người hầu bạn hiện ra, màu rượu vàng ửng. Cybel. Tôi không có tên . Rượu, người hầu bàn hiện ra màu rượu đỏ chói. Đó là tên của vị thánh thảo mộc. Rượu, người hầu bàn hiện ra, màu rượu trắng trong vắt. Em sẽ chẳng bao giờ để anh nhìn thấy em khóc đâu. Không biết buổi dạ vũ đã kết thúc từ lúc nào. Tôi đứng lại trong gian phòng trống không, vắng lặng. A lô, chúng tôi muốn được gặp ông Nguyễn Văn B., chúng tôi xin nhắc lại, chúng tôi muốn được gặp ông Nguyễn Văn B. Tôi bước đến nơi chỗ bàn giấy. Người đàn ông nói với tôi. Ông là Nguyễn Văn B., dạ vâng, chúng tôi báo để ông rõ là chúng tôi không tìm thấy ai tên là Nguyễn Văn B. cả, chắc ông ta không có ở đây, ông hãy liên lạc với các bệnh viện xem, tôi sợ ông ta gặp tai nạn và người ta đã mang ông ta vào trong đó. Tôi nói cảm ơn rồi đi ra khỏi phòng. Từ trong phòng lạnh ra, tôi thấy người như rực nóng, mồ hôi tứa trên cổ trên má, tôi lấy tay áo quệt ngang và ngửi thấy mùi rượu nồng nàn. Tôi lầy chiếc khăn tay lau mặt, tôi nhận thấy vết son và hương thơm của da thịt nàng. Tô đứng lên. Chắc hắn có hẹn với ai. Tôi châm một điếu thuốc. Chiếc hộp quẹt. Có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ… người bạn nói, mình về nhà. Tôi nói ừ, về nhà đi. Tôi không biết ai đã gọi điện thoại cho mình. Chúng tôi chia tay nhau. Mỗi buổi sáng ngồi vào chiếc ghế quen thuộc, chiếc bàn rộng, những tờ giấy, những hàng chữ, những mệnh lệnh, trưa ăn cơm, làm việc lại, buổi chiều ra về, ăn rồi ngủ, cứ như thế, mỗi tuần một buổi đi họp, mỗi buổi chiều những chai bia… Một hôm lăn ra chết. Là xong. Chủ nhật rồi thứ hai. Tờ báo mỗi ngày những tin chiến sự, những người chết, chuyện hiếp dâm, hối lộ, ăn cướp, ông này tuyên bố, ông kia tuyên bố, những tiếng hòa bình, chiến tranh, hạnh phúc, lẽ phải, công chính, gian manh, tội ác, phép lạ, huynh đệ… Giấc ngủ chập chờn những sớm mai. Về nhà. Hai tiếng ấy. Tôi nghe thắt đau trong cuống tim. Ngày trước tôi mơ ước đi xe đạp trên những con đường làng, bờ ruộng, tiếng chuông kính coong hòa trong gió và tiếng sáo diều trong không trung… Thằng em nó khóc, nói nghẹn ngào mẹ mất rồi anh đến đi, sắp nhập quan. Chúng tôi cùng đến. Chiếc áo quan bằng gỗ vàng tâm để mộc, mùi gỗ còn thơm, vân gỗ màu vàng tươi. Mẹ tôi nằm kín trong lần vải trắng. Những lời cầu kinh rì rầm. Tôi ngồi xuống bên giường. Chị tôi bế đứa cháu nhỏ trên tay nói Cậu phải lập gia đình thôi, lớn tuổi rồi. Tiếng cầu kinh đã dứt. Tôi mở tấm vải trắng. Khuôn mặt người đàn ông bị chém, vết chém chia hai khuôn mặt. Không còn mắt. Máu đọng trên hai khóe môi. Tôi phủ tờ giấy lại. Người đàn ông tóc bạc trắng đứng bên nói với tôi chúng tôi đã nhận được tin của ông, tên là Nguyễn Văn B. Tôi nói phải, ông ta ở đâu, để tôi dẫn ông tới. Chúng tôi bước vào một rạp hát. Hàng ngàn thính giả đang ngồi im như 93/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày cầu kinh. Người ca sĩ đang hát trên sân khấu, ánh sáng đỏ rực trên tấm màn nhung đỏ. Tiếng hát vừa dứt, những tràng pháo tay vang động cùng với tiếng reo hò. Con bò rừng tung mình húc tới tấm vải đỏ. Hát thật hay, tôi có lời khen ngợi. Tôi nói cám ơn và đi vào trong hậu trường. Người đàn bà mặt phấn, môi đỏ, mày rậm tiến đến bên cười với tôi, giọng ân cần chúng tôi đang đợi ông. Người đàn bà dắt tôi leo lên khỏi những bậc thang. Nhũng tiếng trống đổ dồn dứt đột ngột. Tấm màn kéo lên cùng với tiếng reo hò của vạn vật. Tôi nhìn xuống thấy đủ loài muông thú. Những con rắn, những con hổ, những con chim cú… Tôi nói cám ơn quý vị, thật đau buồn rằng chiến tranh đã kéo dài quá lâu và tôi lại là kẻ sống sót. Tôi không muốn vậy. Buổi dạ vũ đã tan. Chúng tôi lần lượt xuống thang lầu. Nàng cầm lấy tay tôi rất lâu. Tôi nói chúc em hạnh phúc. Tôi nghĩ nàng khóc. Người bạn nói cả nhà hắn chết chỉ còn lại mình hắn, trái hỏa tiễn rơi trúng giữa nhà. Người bạn nói nó vừa ra trường tới đơn vị chưa đầy một tháng bị mìn chết không toàn thây, còn lại một cái bọc vải nhựa. Cha tôi nói ông ấy điên từ sau khi đứa con cuối cùng bị bắn chết trong khi đi xe đò về phép. Em tôi nói bạn em đi lính hết chỉ còn một đứa lủng phổi phải nằm bệnh viện. Người bạn nói cuối cùng tôi thấy xác bà cụ tôi trong một hầm tập thể, chỉ còn lại những đốt xương trong chiếc áo cũ được nhận. Người cúi cố ngoi người cao lên khỏi lề đường, chìa tay ra xin ông giúp kẻ… Xin cám ơn quý vị. Tôi tiếp tục đi trong hành lang. Lúc sau một người y tá hiện ra. Cô ta nói giọng ngọt ngào xin ông theo tôi. Nàng dẫn tôi vào trong một gian phòng xinh xắn không có ai, trong đó chỉ có một chiếc ghế bành duy nhất, chiếc ghế bọc bằng một lần nhung màu huyết dụ, trước mặt có một chiếc bàn nhỏ phủ tấm khăn trắng muốt, một chiếc ly thủy tinh cao trong suốt có cắm một bông hồng đỏ thắm. Cô y tá để trước mặt tôi một ly nước suối. Cô nói xin ông yên tâm, bà rất khỏe, chắc ông lo cho bà lắm. Tôi nói vâng. Cô y tá vặn chiếc máy hát, một điệu nhạc êm dịu. Chợt có tiếng trẻ khóc ngoài hành lang. Cô y tá đi vào bế theo đứa nhỏ vừa sinh vừa nói ông đặt tên cho cháu là Nguyễn Văn B., cái tên thật hay. Tôi nói cảm ơn cô. Cô y tá bế đứa nhỏ đưa cho tôi, tôi nhìn thấy những vết nhăn trên trán, đôi mắt mở lớn thật buồn. Tôi đưa trả đứa nhỏ rồi đứng lên ra khỏi phòng. Cô y tá chạy theo nói ông bỏ quên cái này. Cô cầm bông hoa ở tay cài lên miệng cho tôi. Mùi hương thanh thoát. Tôi bước ra đường. Thằng em tôi nói tháng này em mới được đổi quần áo. Tôi ngó nó chững chạc trong bộ quần áo quân phục. Trời mưa nhỏ. Con đường vắng lặng, hai hàng cây cao vút để lại một vòm giáo đường. Người đàn ông mặc chiếc áo mưa màu đen, che chiếc dù, người đó đứng lại trước mắt tôi, những nếp nhăn trên trán, đôi mắt mở lớn thật buồn. Người đó nói chẳng gặp anh gì hết, có đến hơn ba mươi năm có nhận ra tôi không? Tôi Nguyễn Văn B. nói chào ông. Người kia quay đi chào ông, làm như người lạ. Phải rồi… Cái áo mưa, chiếc dù khuất đầu, hàng cây cao vút… 94/95 8/8/2020 Trời Cao Đất Dày Ngọn nến hồng rực rỡ trước mặt. Em nhắc lại cùng anh từ đầu, anh sinh ra ngày… Những giọt nước mắt tinh khôi lăn trên. 95/95
Những bài ca dao - tục ngữ về "trời đất" Dù cho đất đổi trời thay Dù cho đất đổi trời thay Trăm năm vẫn giữ lòng ngay với đời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Thấy anh hay chữ, hỏi thử đôi lời Vậy anh có biết ông trời họ chi? – Em ghé tai xuống đất, kêu đất nó ơi Rồi anh sẽ nói họ ông trời cho em nghe Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng Chữ địa là đất, đất rộng mênh mông Chữ hà là sông, sông dài lai láng Em hỏi anh rày quê quán ở đâu? – Chữ thiên là trời, trời cao lồng lộng. Chữ địa là đất, đất rộng thinh thinh Nói ra sợ bạn buồn tình Đêm nằm lụy nhỏ như bình nước nghiêng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng, Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông, Cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây xui khiến đem lòng thương em. Dị bản Cây trên rừng hoá kiểng, Cá dưới biển hoá long, Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Đến đây trời khiến đem lòng thương em. Trên trời có mây hóa kiểng, Dưới biển có cá hoá long. Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Trên rừng có cây hoa kiểng, Dưới biển có cá hóa long. Con cá lòng tong ẩn bóng ăn rong, Anh đi Lục Tỉnh giáp vòng, Tới đây trời khiến đem lòng thương em. Cây trên rừng hóa kiểng, cá ngoài biển hóa rồng Cá lòng tong giữa bóng ăn rong Anh đi lục tỉnh giáp vòng Tới đây ông trời khiến đem lòng yêu em. Làm người phải có trí khôn Làm người phải có trí khôn Nghĩ sao cho hết đất vuông trời tròn Lên rừng biết núi biết non Xuống khe biết nước chảy đá mòn, con cá lội giương vi Trời cao cao bấy không xa Trời cao cao bấy không xa Đất kia rộng vậy thế mà dày sâu Bể xa mây nước mù mù Biết mô cửa lạch biết mô sông cùng Ai xui đất thấp trời cao Ai xui đất thấp trời cao Để cho tôi đứng tôi gào hết hơi Hết hơi chẳng thấy trả lời Thấy trong trời đất có tôi đứng gào Trời cao hơn trán Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương Dị bản Trời cao hơn trán, đuốc sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển, biển rộng hơn sông Anh thương em linh láng tràn đồng Bây giờ em lại kiếm chồng bỏ anh. Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó lên trời, trời cao lồng lộng Ngó xuống đất, đất rộng mênh mông Thương em xóm Thủ chưa chồng Anh muốn vô làm rể, biết em bằng lòng hay không? Cớ sao thấy mặt thì thương Cớ sao thấy mặt thì thương Hay chăng trời đất vấn vương cho mình? Em than một tiếng, trời đất xoay vần Em than một tiếng, trời đất xoay vần Chim trên rừng còn rơi lụy, anh là người trần, sao anh lại không thương? Dị bản Em than một tiếng than, trời đất xây vần, Chim trên cành còn khóc tức tưởi, huống chi kẻ phàm trần lại ngó lơ? Thiên Trời từ Hán-Việt. Lai láng Tràn đầy khắp nơi như đâu cũng có. Từ này cũng được dùng để chỉ trạng thái tình cảm chứa chan, tràn ngập. Lòng thơ lai láng bồi hồi, Gốc cây lại vạch một bài cổ thi. Truyện Kiều Thinh thinh Thênh thênh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Lòng tong Còn gọi là lòng đong, tên gọi chung của một số loại cá nước ngọt hoặc nước lợ, thân nhỏ, thường được người dân đem kho khô hoặc kho nước với tiêu bột ăn cơm nóng. Cá lòng tong chỉ vàng Nam Kỳ lục tỉnh Tên gọi miền Nam Việt Nam thời nhà Nguyễn, trong khoảng thời gian từ năm 1832 tới năm 1862 khi Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông và năm 1867 khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây, bao gồm sáu lục tỉnh 1. Phiên An, sau đổi thành Gia Định tỉnh lỵ là tỉnh thành Sài Gòn, 2. Biên Hòa tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa, 3. Định Tường tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho ở miền Đông; 4. Vĩnh Long tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long, 5. An Giang tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc, 6. Hà Tiên tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên ở miền Tây. Bản đồ Lục tỉnh năm 1808 Kiểng Cảnh phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ "Cảnh" là tên của Nguyễn Phúc Cảnh con cả của chúa Nguyễn Ánh, người được đưa sang Pháp làm con tin để đổi lấy sự giúp đỡ đánh nhà Tây Sơn, vì vậy được gọi trại ra thành "kiểng" để tránh phạm húy. Mô Đâu, nào phương ngữ Trung Bộ. Cửa lạch Hay cửa biển, nơi sông đổ ra biển. Quản Người Nam Bộ đọc là quyển, một loại nhạc cụ hình ống giống như ống sáo, ống tiêu. Thiệt Thật phương ngữ Trung và Nam Bộ. Chữ này được đọc trại ra như vậy do kị húy bà vương phi Lê Thị Hoa được vua Gia Long đặt tên là Thật. Xóm Thủ Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Xóm Thủ, hãy đóng góp cho chúng tôi. Lụy Nước mắt phương ngữ Nam Bộ, nói trại từ lệ.
Trời cao thăm thẳm, đất dày Trời cao thăm thẳm, đất dày Bao giờ lính mộ sang Tây được về Vợ con thương nhớ ủ ê Biết rằng sang đấy có về được không? Cùng thể loại Hỡi ai đi sớm về trưa Hỡi ai đi sớm về trưa Kìa Bát Tốt Lát đón đưa chào mời Hương thơm khói đậm tuyệt vời Hút cho một điếu cho đời thêm tươi Dù anh văn hoá lớp mười Dù anh văn hoá lớp mười Anh chưa ra trận, em thời không yêu Dù anh sắc sảo, mỹ miều Nếu không ra trận, không yêu làm chồng Dị bản Dù em nhan sắc tuyệt vời Em không đánh Mỹ, anh thời không yêu Dù em duyên dáng, mỹ miều Nếu không đánh Mỹ, đừng kêu muộn chồng Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Vì thằng giặc mỹ Giôn-xơn Nên ta phải vượt Trường Sơn qua Lào Thủ đô xa tự năm nào Giã từ Tam Đảo, vẫy chào Điện Biên Nay mai chiến thắng trăm miền Thủ đô, Tam Đảo, Điện Biên lại về. Cha chài, mẹ lưới bên sông Cha chài, mẹ lưới bên sông Đứa con thi đậu làm ông trên bờ Dị bản Cha chài, mẹ lưới, con câu Có con hay chữ làm quan trên bờ Đời mạt kiếp sao anh không thấy Đời mạt kiếp sao anh không thấy Phỉnh phờ anh nó nói giàu sang Xui anh vào lính Tây bang Để cho chúng nó ngủ an trên lầu Anh ơi phú quý về đâu Thân mình khổ cực bù đầu tóc xơ Anh mau về lúc bây giờ Ở nhà cha đợi mẹ chờ em trông Ai về Thừa Sủng mà coi Ai về Thừa Sủng mà coi, Tây đen Tây trắng xác phơi đồng Mờm. Quan Nghè ở tận trong hang Quan Nghè ở tận trong hang, Thằng Tây mò đến quan phang bể đầu. Khen cho Cao Thắng tài to Khen cho Cao Thắng tài to Đúc được súng ống in đồ như Tây Tiếng đồn đây đó Cao thầy Khen cho mưu mẹo có tài khôn ngoan. Khen cho Cao Thắng tài to Khen cho Cao Thắng tài to Lấy được súng giặc về cho lò rèn Súng ta chế được vừa xong Đem ra mà bắn nức lòng lắm thay Bắn cho tiệt giống quân Tây Cậy nhiều súng ống phen này hết khoe. Can trường Tri Lễ là đây Can trường Tri Lễ là đây Ông Cao Thắng chế súng đánh cho Tây nhừ đòn Có cùng từ khóa Tài nguyên than mỏ nước Nam Tài nguyên than mỏ nước Nam Thằng Tây làm chủ, mình làm cu li Chỉ vì đói rách phải đi Đi làm phu mỏ, bỏ quê, bỏ nhà Một nghìn chín trăm ba ba Là năm Quý Dậu con gà ác thay Kể dời phu mỏ Hòn Gai Công ty than của chủ Tây sang làm Chiêu phu mộ Khách, An Nam Cuốc tầng khai mỏ tìm than ra vầy Than ra ở các mỏ này Hà Lầm, Hà Sú, mỏ rày Ngã Hai Bán than cho các nước ngoài Tàu bè ngoại quốc vãng lai mua dùng Chủ nhì, chủ nhất, đốc công Mỗi sở một sếp cai trong sở làm Làm ra máy trục, máy sàng Sở Tàu, Than Luyện, Sở Than chung là Va-gông, than chở về ga La-ga đặt ở Cốt Na cổng đồn Để cho xe hỏa dắt dồn Thật là tiện lợi gọn gàng vân vi Ăng Lê, Nhật Bản, Hoa Kỳ Hồng Kông, Thượng Hải đều thì sang mua Cửa Ông là Cẩm Phả po Cẩm Phả min, Cọc Sáu, cùng là Mông Dương Ngoại giao các nước thông thương Hòn Gai giàu vốn lại cường thịnh ra Tây Bay coi sổ la voa Bắc ngay đường sắt cho xe thông hành Một đường đi thẳng Hà Lầm Một đường Núi Béo, Cọc Năm đi về … Tìm vào đến mỏ Hòn Gai Tìm vào đến mỏ Hòn Gai Xin làm phu mỏ ở ngay dưới hầm Cuộc đời vất vả âm thầm Mông Dương, Cẩm Phả, Hà Lầm đều qua Ông Tây con chó làm thinh Ông Tây con chó làm thinh Ai chê chẳng sợ ai khinh chẳng nhờn Thằng Tây mặt trắng như vôi Thằng Tây mặt trắng như vôi Trắng răng mũi lõ đuổi tôi thế này. Ai sinh ra Hà Sú này Ai sinh ra Hà Sú này Có anh cai Bút ngày ngày vênh vang Quần lơ lại vận áo vàng Chân thì tập tễnh nhưng quàng giày Tây. Em là con gái tỉnh Nam Em là con gái tỉnh Nam Chạy tàu vượt biển ra làm Cửa Ông Từ khi mới mở Cửa Ông Đi làm thì ít, đi rông thì nhiều Chị em cực nhục trăm điều Trước làm một lượt đã trèo cầu thang Đặt mình chưa ấm chỗ nằm Đã lại còi tầm hú gọi ra đi Dế kêu, suối chảy rầm rì Bắt cô trói cột não nề ngân nga Đoàn người hay quỷ hay ma Tay mai, tay cuốc, sương sa mịt mù Hai bên gió núi ù ù Tưởng oan hồn của dân phu hiện về. Mẹ ru con ngủ cho ngoan Mẹ ru con ngủ cho ngoan, Mẹ còn xúc nốt xe than cho đầy, Mẹ ru con ngủ cho say, Làm xong chuyến nữa nghỉ tay mẹ về Tháng lương được có ba hào Tháng lương được có ba hào, Thúng than trên đầu nặng lắm con ơn! Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều Cuộc đời phu mỏ đói nghèo đắng cay Giam chân chốn sở than này Thân con ắt bón gốc cây giữa rừng. Tàu vào dân chúng mừng thầm Tàu vào dân chúng mừng thầm Than ăn vạn tấn, mà tiền vẫn không Nay Phòng, mai lại đi Kông Trở về chỉ thấy cặp không với người. Lính mộ Lính được chiêu mộ. Từ này thường dùng để chỉ những người bị thực dân Pháp gọi mộ đi lính trước đây. Lính khố đỏ. Bastos Luxe Giới bình dân gọi là "Bát Tốt Lát" hay "Bát Tốt Lút," một nhãn thuốc lá đầu lọc của hãng Juan Bastos phổ biến vào những năm 1960 ở Sài Gòn. Hệ giáo dục phổ thông miền Bắc từ năm 1956 đến năm 1985 chia làm ba cấp cấp I bốn năm, cấp II và cấp III mỗi cấp ba năm, tổng cộng là mười năm. Giôn-xơn Lyndon Baines Johnson, tổng thống thứ 36 của Mỹ, nắm giữ hai nhiệm kì từ năm 1963 đến năm 1969. Ông này chủ trương đẩy mạnh sự can thiệp của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, mà tiêu biểu là việc triển khai quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến sau sự kiện vịnh Bắc Bộ năm 1964. Tổng thống Mỹ Johnson Trường Sơn, Lào, Thủ Đô, Tam Đảo, Điện Biên đều là tên của các nhãn hoặc loại thuốc lá phổ biến ở miền Bắc vào những năm 1960-1970. Thuốc lá Điện Biên Theo sách Cố đô Huế của Thái Văn Kiểm Theo cụ Tùng Lâm, câu này do đám dân chài làng Quảng Tế, huyện Hương Trà đặt ra để nhắc lại sự tích ông Huỳnh Hữu Thường, con một ngư phủ, mà biết chăm lo việc học hành, thi đỗ Cử nhân, rồi đỗ Hoàng giáp, làm quan đến Thượng thư. Vua Tự Đức rất mến ông, nhận thấy làng ông không có đất đai chi cả, bèn hạ chỉ cắt 20 mẫu đất làng Nguyệt Biều giao cho làng Quảng Tế để có đất cho dân cư ngụ, trồng trỉa và xây cất đền chùa. Thừa Sủng – Đồng Mờm Địa danh nay là nơi tiếp giáp giữa hai huyện Yên Thành và Diễn Châu, nơi xảy ra trận đánh giữa nghĩa quân Nguyễn Xuân Ôn và quân Pháp vào năm 1886. Trận này nghĩa quân thắng lớn, tiêu diệt hàng trăm tên địch. Nguyễn Xuân Ôn 1825 – 1889 Cũng gọi là Nghè Ôn, một vị quan nhà Nguyễn và thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa chống Pháp ở Nghệ Tĩnh cuối thế kỷ 19 trong phong trào Cần Vương. Cao Thắng 1864 – 1893 Quê xã Sơn Lễ, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, là trợ thủ đắc lực của Phan Đình Phùng và là một chỉ huy xuất sắc trong cuộc khởi nghĩa Hương Khê 1885-1896 thuộc phong trào Cần Vương. Ông có công chế tạo súng cho nghĩa quân, gây ra tổn thất lớn cho thực dân Pháp. Tháng 11/1893, Cao Thắng hi sinh trong trận tấn công đồn Nu Thanh Chương khi mới 29 tuổi. Can trường Gan dạ, coi thường hiểm nguy. Tri Lễ Địa danh nay là một xã thuộc huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An. Cu li Từ tiếng Pháp coolie, chỉ người lao động làm những công việc nặng nhọc. Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Công ti than Bắc Kì Tên tiếng Pháp là Société française des charbonnages du Tonkin viết tắt là SFCT, một công ti Pháp được thành lập 1988 với mục đích quản lí và vơ vét tài nguyên than đá ở Hạ Long với thị trường xuất khẩu chính là Nhật Bản. Công ti này tuyển dụng người Hoa "khách" và người Việt làm phu mỏ với mức lương rẻ mạt. Đây là cái nôi ra đời của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và công nhân khu mỏ Quảng Ninh nói riêng. Mỏ than Hà Tu thuộc công ti than Bắc Kì Chú khách Một cách gọi người Hoa sống ở Việt Nam. Từ này bắt nguồn từ chữ "khách trú," cũng gọi trại thành cắc chú. An Nam Tên gọi của nước ta trong một số giai đoạn lịch sử. Tiêu biểu nhất có lẽ là dưới thời kì đô hộ của thực dân Pháp, khi nước ta bị chia thành ba kỳ. Hà Lầm Địa danh nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long. Tại đây có mỏ Hà Lầm, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Hà Tu Tên cũ là Hà Sú, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có mỏ than Hà Tu, vào thời Pháp thuộc thuộc sự quản lí của công ti than Bắc Kì. Đường sắt mỏ Hà Tu Nguồn Thư viện quốc gia Pháp Ngã Hai Một khu vực thuộc xã Dương Huy, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có mỏ than Ngã Hai, hiện vẫn còn được khai thác. Vãng lai Đi lại từ Hán Việt. Đốc công Người thay mặt chủ xí nghiệp trông nom công việc của thợ thuyền ngày trước. Cai Người trông coi trong các công trường, nhà tù thời phong kiến, Pháp thuộc. Va-gông Toa xe từ tiếng Pháp wagon. La ga Tiếng Pháp la gare, nghĩa là nhà ga. Nagotna Một mỏ than thuộc quyền sở hữu của công ti Than Bắc Kì dưới thời Pháp thuộc, nối với mỏ than Hà Tu bằng một tuyến đường sắt dài 3km. Vân vi Đầu đuôi câu chuyện, đầu đuôi sự tình từ cũ. Ăng-lê Nước Anh hoặc người Anh từ tiếng Pháp Anglais. Cửa Ông Địa danh nay là phường Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây có đền Cửa Ông, được xem là một trong những ngôi đền đẹp nhất Việt Nam, thờ Hưng Nhượng Đại Vương Trần Quốc Tảng cùng nhiều nhân vật lịch sử thời Trần. Đền Cửa Ông Cẩm Phả Po Cảng Cẩm Phả "po" phiên âm từ tiếng Pháp port, nghĩa là cửa hoặc cảng. Cẩm Phả min Mỏ than Cẩm Phả "min" phiên âm từ tiếng Pháp mine, nghĩa là mỏ. Cọc Sáu Tên một mỏ than nay thuộc địa phận phường Cẩm Phú, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Mông Dương Địa danh nay là tên một phường thuộc thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Đây là nơi có mỏ than Mông Dương, một trong những mỏ thang có trữ lượng lớn và chất lượng tốt nhất từ thời Pháp thuộc. Khai thác than ở mỏ Mông Dương Tên Baille, sếp đường tàu hỏa. Núi Béo Tên một mỏ than nay thuộc địa phận phường Bạch Đằng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cọc Năm Một mỏ than thuộc quyền quản lí của công ti than Bắc Kì dưới thời Pháp thuộc, nay thuộc địa phận phường Hồng Gai, thành phố Hạ Long. Cẩm Phả Một địa danh nay là thành phố thuộc tỉnh Quảng Ninh. Tại đây từ xưa đã nổi tiếng với ngành khai thác than đá. Cẩm Phả cũng có nghề khai thác hải sản với hơn 50 km bờ biển, nhưng chủ yếu là đánh bắt gần bờ, sản lượng thấp. Cẩm Phả về đêm Còi tầm Còi báo bắt đầu hoặc kết thúc giờ làm việc các xưởng, mỏ, công trường, nhà máy… Bắt cô trói cột Một loài chim thuộc họ Cu cu, chim trưởng thành nửa thân trên có màu trắng, nửa dưới có nhiều vạch trắng đen. Tiếng chim kêu nghe như "Bắt cô trói cột" nên dân gian lấy làm tên, sinh sống hầu như trên khắp nước ta. Nghe tiếng chim bắt cô trói cột. Bắt cô trói cột Dân phu Người dân lao động phải làm những công việc nặng nhọc trong chế độ cũ phu xe, phu mỏ, phu đồn điền. Hào Một trong các đơn vị tiền tệ hào, xu, chinh, cắc bắt đầu xuất hiện ở nước ta từ thời Pháp thuộc. Mười xu bằng một hào, mười hào bằng một đồng. Tiền giấy năm hào Đông Triều Tên một huyện thuộc tỉnh Quảng Ninh, là vùng đất cổ có từ thời Bắc thuộc, ghi đậm nhiều dấu ấn lịch sử và văn hóa. Đây cũng là nơi phát hiện ra than đá đầu tiên ở Việt Nam, và than đá Đông Triều đã được khai thác từ rất sớm – từ những năm 1820. Lăng mộ vua Trần ở đập Trại Lốc Cảng Hải Phòng Được xây dựng từ năm 1874, một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn nhất miền Bắc và lớn thứ hai cả nước sau cảng Sài Gòn, là cửa ngõ quốc tế nằm tại hai quận Hồng Bàng và Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Khu cảng chính trên sông Cấm còn gọi là bến Hoàng Diệu, trước gọi là bến Sáu Kho. Bến Sáu Kho ngày trước Tức Hồng Kông Hương Cảng.
MỤC LỤC Lời Tựa 1. Một Ngày Để Khóc 2. Ngày Giỗ Đầu của Gabriel 3. Hồn Thiếu Nữ Tối Lễ Độc Lập 4. Ai Làm Nên Nỗi? 5. Nhiều Nỗi Truân Chuyên 6. Máy Điện Toán và Tôi 7. Giả Ngu Tìm Bọ 8. Vẫn Chiến Đấu Âm Thầm 9. Lý Lẽ của Trái Tim 10. Thà Chịu Tiếng Lầm Đường 11. Còn Đáng Mặt Đàn Ông 12. Người Mẹ Đi Ăn Mày 13. Thảm Kịch Gia Đình 14. Tấm Gương Hiếu Thảo 15. Như Trong Niềm Nhớ 16. Người Bơi tới Thiên Đường 17. Trời Cao Đất Dày 18. Như Truyện Kiếm Hiệp 19. Bừng Con Mắt Dậy 20. Đời Cô Lệ 21. Nhìn Quá Khứ, Đoán Vị Lai 22. Bỏ Thì Thương, Vương Thì Tội 23. Về Tắm Ao Ta 24. Chuyện Ngu Thứ Năm Tiểu sử Nguyễn Ngọc HoaLỜI TỰA Cuối năm 2012, hơn chín năm trước, chúng tôi đặt ra cho mình một dự án văn chương khiêm nhường viết truyện ngắn để kể lại cho bạn bè nghe những câu chuyện của một quãng đời xa xưa và trau giồi Việt ngữ sau những năm dài sống xa quê hương. Mặc dù cuốn Trời Cao Đất Dày Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa VIII trên tay quý bạn đã đánh dấu một đoạn đường khá dài gồm ngót hai trăm truyện ngắn, mục tiêu ban đầu của chúng tôi vẫn không thay đổi. Mỗi truyện ngắn là một tác phẩm riêng lẻ đặt liên hoàn với các truyện khác theo thứ tự thời gian, nhưng toàn thể tám cuốn Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa I, II, III, IV, V, VI, VII, và VIII phổ biến và ấn hành từ năm 2013 đến nay không hẳn là một trường thiên tiểu thuyết. Nhớ chuyện cũ đến đâu, chúng tôi viết đến đó chứ không sắp đặt trước bố cục, nội dung, hay nhân vật như các tác giả viết truyện dài. Các truyện ngắn trong tập truyện này đã được phổ biến dưới tiêu đề “loạt truyện Theo Ngọn Mây Tần” – lấy từ câu “Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa” trong truyện Kiều – kể lại những câu chuyện chúng tôi trải qua, chứng kiến, hay nghe thuật lại khoảng cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, khi cố gắng hòa nhập với đờisống Hoa kỳ nhưng vẫn hướng về quê hương yêu dấu. Để tránh ngộ nhận đáng tiếc, chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa Tác phẩm của chúng tôi không phải là hồi ký, tự truyện, hay tài liệu ghi lại dữ kiện lịch sử. Nhân vật xưng "tôi" được dùng làm nhân chứng thuật lại chuyện cũ, không phải chính tác giả. Mọi nhân vật khác đều được dựng nên và tiểu thuyết hóa cho phù hợp với chuyện kể, xin đừng liên kết với bất cứ nhân vật nào ngoài đời. Chúng tôi xin cám ơn các thân hữu đã góp ý, phê bình, và chỉnh sửa cũng như đã khích lệ chúng tôi trong việc sáng tác. Xin được kể tên vài người là các chị Lưu Phương Lan nhà văn Phương Lan và Trần Thùy Mai nhà văn và các anh Nguyễn Trọng Dzũng, Nguyễn Đình Hiếu, Nguyễn Nhật Hoàng báo Trẻ, Nguyễn Thanh Hoàng nhà văn Phan Hạnh, Nguyễn Xuân Phong, Nguyễn Khắc Phụng, Châu Hiền Quang nhà thơ Kiều Phong Toronto, Nguyễn văn Sâm, Nguyễn Thiệp nhà văn Tràm Cà Mau, Nguyễn Xuân Thiệp nhà thơ, và Nguyễn Công Thuần. Chúng tôi cũng cám ơn tiện nội là kịch tác gia, nhà văn, và đạo diễn Nguyễn thị Minh Ngọc đã thương yêu tạo điều kiện cho chúng tôi sáng tác và xuất bản tác phẩm đã viết. Chúng tôi hy vọng, trong một tương lai không xa, sẽ có cơ hội ấn hành và ra mắt độc giả Tập Truyện Nguyễn Ngọc Hoa IX đang được phổ biến dưới tiêu đề “loạt truyện Nhận Làm Quê Hương.” Mời quý bạn đón xem. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày Hạ chí 2022 21-06-2022Một Ngày Để Khóc Mùa xuân đến gần sáu tuần nay, nhưng buổi sớm mai trời North Dakota còn se lạnh. Tôi ra khỏi nhà đi làm mà lòng bồi hồi rưng rưng, con đường đến sở dường như không còn quen thuộc như mọi ngày vì trong tâm tưởng, tôi đang sống lại những kỷ niệm buồn đau. Ngày này, 30 tháng Tư, đúng một năm trước đây 1975, lúc mười giờ rưỡi sáng, trên chiếc chiến hạm Hải quân di tản đến hải phận quốc tế ngoài khơi Vũng Tàu, tôi đã khóc và hát bài quốc ca Việt nam Cộng hòa “VNCH” một lần cuối khi lá cờ vàng ba sọc đỏ từ từ hạ xuống kỳ đài, Này công dân ơi! Đứng lên đáp lời sông núi. Đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống. Đêm qua tối thứ Năm, tôi thức khuya gọi điện thoại nói chuyện với thằng Tú, người bạn thương phế binh thân thiết đang dạy học ở Rockford thuộc tiểu bang Illinois; gọi viễn liên sau 11 giờ đêm giá rẻ hơn ban ngày và buổi tối, tỉ tê chuyện cà kê dê ngỗng đỡ ngại cháy túi. Hai thằng vừa khóc vừa cười nhớ lại chuỗi ngày tuyệt vọng thương đau dẫn tới biến cố đổi đời “bỏ nước ra đi” và nhắc nhở những chuyện vặt về thằng Song, bạn cùng lớp và cũng là bạn thân nhất của tôi ở trường kỹ sư bây giờ sống khốn khó ở Việt nam. Tôi chơi với thằng Tú vì nó là bạn thời trung học Pleiku của thằng Song. Bạn của bạn mình đương nhiên là bạn mình; ngày đó, chúng tôi quan niệm đơn giản như thế. Qua giọng nói của thằng Tú, tôi cảm thấy dường như có điều gì ẩn khuất mà nó chưa nói ra. Cuối cùng, nó bật lên hỏi, cố nén nước mắt, “Mày còn nhớ thằng quỷ An không nhỉ?” “Mày què chân chứ đầu óc có cùn đâu mà hỏi gì kỳ vậy? Trong bọn mày – đám khỉ cùng đàn với thằng Song từ Pleiku xuống, mày thân với tao nhất, nhưng thằng An là đứa dễ thương tao khoái nhất.” Trong nhóm bạn thằng Song, thằng An người Huế gặp hoàn cảnh khó khăn hơn cả. Năm cả bọn học đệ nhất lớp 12 trường trung học Pleiku, cha nó mất, và cuối năm nó thi rớt Tú tài II. Trong lúc bạn về Sài gòn học đại học, nó lớn nhất nhà, trở thành cột trụ gia đình, và đưa mẹ và bốn đứa em xuống Mỹ Tho ở nhờ nhà người chú họ và tìm kế sinh nhai. Nó có ba cô em gái kế tiếp nhau, cô kế nó là Lệ Quỳnh kém nó một tuổi, và cậu em trai út lên mười. Tôi gặp nó lần đầu khi đi theo thằng Song từ Sài gòn xuống Mỹ Tho thăm nó, cả gia đình sáu người sống chen chúc trong căn phòng chật chội, và nó phải đưa tôi và thằng Song ra ngoài công viên gần nhà nói chuyện. Thằng An cao lớn, dễ đến hơn một thước bảy, mặt mày trắng trẻo hiền hậu, và đặc biệt nụ cười dễ mến. Lần thứ hai tôi theo thằng Song đi thăm nó thì nó và gia đình ở Vũng Tàu, thành phố du lịch nổi tiếng đời Pháp thuộc dưới tên “Cap Saint Jacques” và nay có nhiều căn cứ quân sự Hoa kỳ. Thằng An giải thích lý do dọn về đây,“Mạ tao và con Quỳnh mua bán hàng Mỹ nhảy dù từ trong Pi-Ếch PX ra. Mạ tao giỏi mà cả và con Quỳnh rành tiếng Anh hiểu rõ mặt hàng nên gia đình đủ ăn. Chiều chiều tao mướn xích-lô chở mấy thằng lính Mỹ chạy chơi vòng vòng để kiếm thêm địa tiền.” “PX” hay “Post Exchange” là cửa hàng Quân Tiếp vụ Hoa kỳ. “Mày giỏi dữ há?” thằng Song khen nhẹ nhàng. “Tụi lính Mỹ trẻ tuổi, cỡ bằng tụi mình, rất thích ngồi xích-lô đi hóng mát và coi thành phố. Mấy anh đạp xích lô thường ốm đói, tụi Mỹ thấy tội nghiệp nên rất ngại đi xe. Nếu đi thì tụi nó biểu anh phu xe ngồi vào ghế đằng trước, để nó ngồi trên yên phía sau đạp xe. Khách Mẽo giành nhau đi xe tao vì tao đô con, tụi nó không ngại. Tao lại biết tiếng Anh nói xí xô xí xào, chỉ trỏ nơi nọ nơi kia.” “Mày định làm nghề xô xích-le xe xích-lô này đến bao giờ?” thằng Song ái ngại. “Tao rán sao có được nhiều tiền để lại cho mạ tao và con Quỳnh trước khi đi vào quân trường. Vì thi hỏng mất rồi ta đợi ngày đi,” thằng An thản nhiên trả lời. Thế rồi thằng An bị gọi nhập ngũ vào trường Bộ binh Thủ Đức, ra trường tình nguyện đi Nhảy Dù, và học nhảy dù ở trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù trong trại Hoàng Hoa Thám, nơi đặt bản doanh bộ tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù, trên đường Lê văn Duyệt nối dài quá Ngã Tư Bảy Hiền chừng một cây số. Ngày nó ra đơn vị là Tiểu đoàn 7 Nhảy Dù, thằng Song và các bạn cũ đã rời khỏi Sài gòn, chỉ còn mình tôi ở đây. Khi được nghỉ phép về Sài gòn, thằng An luôn luôn ghé lại tôi trước khi đi Vũng Tàu thăm nhà. Đời lính bất thường, nó đến tìm tôi vào những lúc bất ngờ nhất. Có lần nó xuất hiện trước cửa giảng đường trong lúc tôi chăm chú dạy học. Một lát sau, thấy sinh viên xì xào nhìn ra cửa, tôi nhìn ra thấy nó đứng nghiêm ưỡn ngực chào như chào kính thượng cấp không biết từ lúc nào. Tôi chìa tay ra hiệu mời nó vào ngồi ở cuối giảng đường và tiếp tục giảng bài cho đến hết giờ dạy. Một lần khác, khi sinh viên học sinh Sài gòn ồn ào xuống đường biểu tình chống chính phủ, đơn vị thằng An bị điều động về giữ an ninh đô thành, đề phòng Việt Cộng lợi dụng tình thế bất ổn để tấn công. Nó đóng quân trên đường Hòa Hưng đi vào khám Chí Hòa và cho người tìm tôi báo tin. Trước khi đến với thằng An, tôi vào Chợ Lớn mua vịt quay và cơm chiên Dương Châu để ăn chiều với bạn. Khi tôi đến, thằng An đang cắt đặt canh gác trạm phòng thủ tạm thời dựng lên bằng bao cát chất cao ngang ngực ở các góc đường. Nó vui vẻ chào tôi như thường lệ rồi biểu anh tà lọt lính cận vệ giúp việc vặt cho sĩ quan chỉ huy đem vịt quay và cơm chiên chia đều cho anh em; tôi và nó cũng có một phần và cùng ăn phần cơm gạo sấy với lương khô như mọi người. Gạo sấy là gạo đã được nấu chín và rút hết nước, khi dùng chỉ cần đổ nước sôi hay nước lạnh vào cho gạo nở thành cơm. Mới lãnh lương túi còn rủng rỉnh, tôi mua bia ở hai chiếc xe sinh tố gần đó và nhờ mang ra đãi trung đội thằng An. Nó cho phép quân nhân không có nhiệm vụ canh gác uống, nhưng ra lệnh uống ít để đừng say sưa. Sau khi giao nhiệm vụ cho anh trung sĩ nhất trung đội phó, nó cùng tôi ngồi bệt ở lề đường uống bia và nhìn xe cộ và khách bộ hành qua lại. Gần khuya, tôi hỏi bạn, “Đêm nay mày ngủ đâu?”“Hàng hiên nhà người ta đó. Tao đã xin phép chủ nhà, thằng tà lọt quét dọn sạch sẽ rồi,” nó đưa tay chỉ ngôi nhà gần đó. “Mẹ nó . . .” tôi tức tối giùm bạn. “Dân nhà binh đi hành quân nằm bờ ngủ bụi là thường, mày thắc mắc làm chó gì cho mệt. Tao chỉ mong tối nay Việt Cộng không đánh vào đây.” Tôi tiếp tục uống bia với thằng An đến sau giờ giới nghiêm rồi ngủ lại dưới hàng hiên với nó. Sáng hôm sau tôi thức dậy, anh tà lọt bưng nước đến mời “ông thầy” rửa mặt. Anh gọi tôi là “ông thầy” vì tôi làm thầy giáo, khác với “ông thầy” gọi thằng An là cấp chỉ huy, là ông sếp nhà binh. Trong số các bạn tôi, thằng An là đứa hiền lành nhất, mặc dù nó là một sĩ quan Nhảy Dù cao lớn và dáng dấp bên ngoài có thể làm bất cứ ai khiếp đảm. Tôi chưa nghe người lính mũ đỏ này chửi thề, tìm cách dọa nạt ai, hay kể chuyện bắn giết ngoài trận địa. Không như những sĩ quan hào hoa “anh là lính đa tình” khác, nó không hề nói về một mối tình nào khác hơn tình yêu thiết tha đối với một cô giáo dạy tiểu học ở Vũng Tàu là bạn thân của Lệ Quỳnh em nó. Mỗi lần chia tay với thằng An là một lần tôi lo đứt ruột, thầm mong Trời Phật phù hộ cho nó được an lành. Đầu năm 1971, suốt hai tháng tôi hồi hộp lo lắng theo dõi tin tức cuộc hành quân Hạ Lào hay chiến dịch Lam Sơn 719. Nó trở về với chiếc lon trung úy vinh thăng ngoài mặt trận và tấm anh dũng bội tinh với nhành dương liễu, nhưng nụ cười héo hắt. Anh dũng bội tinh là huy chương tưởng thưởng cho quân nhân lập chiến công và đi kèm theo bản tuyên dương công trạng. “Với nhành dương liễu” là tuyên dương công trạng trước quân đội – cấp cao nhất; sau đó lần lượt đến cấp quân đoàn với ngôi sao vàng, cấp sư đoàn với ngôi sao bạc, và cấp trung đoàn hay lữ đoàn với ngôi sao đồng. Sau các trận đánh khốc liệt của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, thằng An trở lại, cười rạng rỡ với ba bông hoa mai vàng trên cổ áo và cái huy chương mới trên ngực trái. Từ đầu năm 1974, nó bị điều động đi liên miên ra chiến trường khắp bốn vùng chiến thuật và không có thì giờ đi phép về Sài gòn. Tôi chỉ biết loáng thoáng nó còn sống nguyên vẹn hình hài và đã lên thiếu tá. * * * Khác với mọi khi, thằng Tú bị tôi mắng mà không phát cáu hay mắng trả. Nó rầu rầu, “Đầu óc tao chưa cùn nên vẫn nhớ ngày Sài gòn hai thằng mày gần gũi với nhau. Vì mày là thằng mít ướt tình cảm như đàn bà con gái nên tao phân vân không biết có nên cho mày hay không.” “Thằng què này, mày có tin thằng An mà định giấu tao sao hả? Hay là nó chết cha nó rồi?” tôi nóng lòng hỏi tới. “Ừ, nó chết cha nó rồi . . .” thằng Tú lạc giọng. “Khi nào? Sao lâu nay mày không nói gì cả?” tôi la lên thật lớn. “Tao mới hay tin hôm kia thôi. Con Quỳnh em nó viết thư cho người bà con bên Gia Nã Đại nhờ tìm cách nhắn lại với tao. May sao người đó lại quen thân với bà chị lớn của con Phụng vợ tao chị còn ở Việt nam,” nó nhăn nhó giải thích rồi chậm rãi thuật ngày 30 tháng Tư, thằng An không chịu đi trình diện “học tập cải tạo” vì biết chắc một thiếu tá Nhảy Dù VNCH với tội “mang nợ máu với nhân dân” sẽ không sống sót nổi trong trại tù hà khắc tàn khốc của Việt Cộng. Nó liên lạc với một số bạn cựu đồng ngũ không đi trình diện như nó và mưu toan lập lực lượng đi vào rừng kháng chiến. Mộng lớn không thành, nó theo người lính cận vệ thân tín thương nó như anh ruột, về quê anh ta là một làng đánh cá ở Phước Tuy ẩn nhẫn trốn tránh, và làm ngư phủ để vừa nuôi thân vừa che mắt nhà cầm quyền mới. Là chiến binh từng vào sinh ra tử và quen tìm đường sống trong chỗ chết, thằng An và các bạn tin rằng ở hải phận quốc tế ngoài khơi Việt nam, hàng ngày có hàng trăm thương thuyền ngoại quốc đi lại, chưa kể các tàu tuần tiễu của Đệ thất Hạm đội của Hải quân Hoa kỳ. Chỉ cần liều chết đi ra đó chờ xin tiếp cứu, thế nào cũng được vớt ra khỏi địa ngục trần gian mà nghệ sĩ Trần văn Trạch 1924 - 1994 tóm tắt bằng câu nói đơn giản "Ở Việt nam, cái cột đèn cũng muốn ra đi." Cùng lắm là vùi thân vào bụng cá, xem như chọn nhằm cửa tử thần! Cơ hội đến vào mùa biển động cuối tháng Hai, “công an biên phòng” lơ là canh phòng vì ỷ y không ai dám “vượt biên” trong mùa này. Thằng An cùng một số cựu quân nhân VNCH khác lên đường ra khơi. Không ai biết chuyện gì xảy ra sau đó. Chỉ biết vào khoảng mười ngày sau, trong cơn thịnh nộ của biển cả, xác vỡ của chiếc thuyền đánh cá cùng với thân xác của chừng 20 thanh niên bị sóng đánh tấp vào bãi biển làng Phước Hải gần Vũng Tàu, cách nơi khởi hành khoảng 20 cây số về phía nam. Ở đầu dây bên kia, thằng Tú khóc tấm tức, “Dân làng tìm thấy xác của đám người ra đi, khi thủy triều đang dâng lên. Không nỡ để cơn sóng kéo xác ra biển trở lại, họ liền trói’ xác vào thân cây trên bãi để giữ lại chờ thân nhân đến nhận.” “Tại sao phải trói’?” tôi ngạc nhiên tột bậc. “Thực ra là buộc xác vào thân cây, nhưng con nước ròng quá mạnh nên phải gô trói chặt xác lại mới giữ được.” Lòng tôi quặn đau, hai hàng nước mắt chảy dài trên má. An ơi, tao nhớ mày quá sức. Nhớ câu “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu” Có say nằm nơi sa trường bạn cũng đừng cười trong “Lương Châu từ” hay khúc hát Lương Châu của Vương Hàn thời Thịnh Đường mà mình ngâm nga với nhau trong đêm ngủ hàng hiên trên đường Hòa Hưng. Thằng Tú nói tao mít ướt nên tao thương mày mà không khóc. Để dành nước mắt khóc cho đất nước mình. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 17 tháng Ba, 2021Ngày Giỗ Đầu của Gabriel Hôm nay thứ Sáu, buổi sáng tôi đi làm mà lòng thấy rộn ràng. Trước mặt là cuối tuần dài nghỉ lễ Chiến sĩ Trận vong truy niệm vào ngày thứ Hai cuối cùng của tháng Năm. Sau Tết tây, đó là ngày nghỉ lễ đầu tiên của tôi trong năm. Tôi và mấy người bạn Việt đã dự trù một chương trình “ăn chơi” cho bõ . . . những ngày mùa đông cơ cực. Chúng tôi sẽ kéo nhau cả đoàn đi câu cá, picnic, và cắm trại ngoài hồ rồi ghé thăm nông trại của vợ chồng Phượng và Dean để người lớn bắt gà “đi bộ” làm thịt ăn nhậu và trẻ em chạy chơi ngoài đồng. Miên man nghĩ tới cuối tuần vui vẻ sắp tới, bất giác tôi thấy yêu đời vừa đi vừa hát nho nhỏ, Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về Gọi hồn liễu rũ lê thê, gọi bờ cát trắng đêm khuya. Trịnh Công Sơn – “Biển Nhớ” Bỗng một thiếu nữ đậu xe bên kia đường, chạy băng qua, và niềm nở như thường lệ, “Chào anh Ba Hoa, anh khỏe không? Hình như anh có gì vui lắm?” Nàng là Laurie làm kế toán viên nha Kế toán ở lầu ba, hàng ngày đi làm đậu xe tại chỗ này, và thường gặp tôi vào giờ này. Nàng độ hai mươi ba, hai mươi bốn tuổi, xinh xắn và hoạt bát, và luôn luôn vồn vã bắt chuyện khiến tôi có cảm tưởng nàng thân mật với tôi hơn là với một người bạn cùng sở thông thường. Hôm nay bị bắt gặp đang lẩm bẩm hát, tôi đâm ra bối rối, “Chào cô Laurie. Có gì đâu, tôi nói chuyện một mình ấy mà.” “Nói chuyện một mình chắc ăn nhất, họ’ không bao giờ nói trả lại,” nàng cười thông cảm, “Tôi cũng hay hát một mình, họ’ không bao giờ chê tôi hát dở hay bực bội khi tôi bỏ dở nửa chừng vì quên phần bài ca còn lại.” “Mặc dù người Việt có câu hát hay không bằng hay hát,’ tôi bị bà vợ cấm không cho hát ở nhà, ngay cả trong lúc đi tắm, vì sợ cậu con nhỏ nghe được. Tôi hát dở ẹt mà ít khi nhớ rõ lời bài hát nên cứ hồn nhiên hát nhại thành lời nhảm nhí. À, thế phân nửa tuyệt vời hơn của cô đâu?” tôi nhân tiện hỏi dò; “phân nửa tuyệt vời hơn” your better half là từ ngữ dùng ám chỉ vợ hay chồng, hay ngườisống chung như vợ chồng, của người đối diện. “Trước khi gặp anh sáng nay tôi tính sẽ gọi điện thoại mời anh đi uống cà-phê vào giờ nghỉ giải lao, và sẽ hỏi anh một chuyện. Anh đi nhé, lúc đó tôi sẽ trả lời câu hỏi của anh.” Tôi nhận lời không do dự; khi đến sở, Laurie hẹn gặp lại ở tiền đình ngay cửa ra vào. Lời mời bất ngờ của nàng khiến tôi bâng khuâng nhớ lại câu chuyện “bị bà Mỹ đẹp tuyệt vời tấn công” một anh bạn độc thân sang đây một mình kể đi kể lại khi ngà ngà say trong các buổi nhậu cuối tuần. Câu chuyện được cho kết thúc bằng màn anh bạn lắc đầu quầy quậy, từ chối “hảo ý hiến dâng của bà Mỹ,” nhưng ai cũng biết anh là kẻ thích khoác lác một tấc lên tới trời. Laurie chờ sẵn dưới nhà và cùng tôi đi bộ ra café cách sở chưa tới hai khu phố. Mặc dù từ tiếng Pháp có nghĩa là cà-phê, “café” trong tiếng Anh là quán ăn nhỏ bán cả đồ ăn lẫn thức uống, thực đơn có giới hạn, và món ăn tương đối đơn giản và giá phải chăng. Người Mỹ gọi quánchuyên bán cà-phê là “coffeehouse.” Đặc biệt ở các quán ăn vùng miền bắc Hoa kỳ, khi gọi càphê, khách uống bao nhiêu cũng được, không giới hạn, và nhà hàng không tính tiền thêm. Sau khi chúng tôi rót cà-phê vào tách và uống ngụm đầu tiên, nàng hỏi, “Cuối tuần này anh chị có chương trình làm gì chưa?” “Chúng tôi và vài người bạn định đi câu cá và cắm trại đến chiều Chủ Nhật, sau đó ra nông trại thăm vợ chồng một người bạn khác, và ở lại chơi cho đến hết chiều thứ Hai.” “Vậy thì tôi chậm chân một bước, tiếc quá. Thôi để tôi trả lời câu hỏi của anh trước Tôi sống một mình ở apartment để đi làm và không có phân nửa tuyệt vời hơn nào cả. Tôi độc thân’ từ khi Gabriel đi lính qua Việt nam và không hề trở lại,” giọng nói trầm xuống và đôi mắt buồn tênh, nàng kể lại về người tình thời trung học nay không còn trên cõi đời. Gabriel và Laurie ra đời cùng năm trong hai gia đình nông gia ở kế cận nhau. Chơi với nhau từ lúc chưa biết nói, hai đứa trẻ đi học trên cùng một chuyến xe buýt vào trường trong thành phố, học cùng lớp cùng trường, và buổi tối sang nhà nhau cùng làm bài. Đến năm cuối trung học, tình yêu của họ lớn mạnh và được hai gia đình chính thức chấp nhận, đôi bạn bắt đầu tính chuyện tương lai Họ sẽ đi Fargo, thành phố lớn nhất của North Dakota, học trường North Dakota State University NDSU. Gabriel sẽ học ngành canh nông vì trường canh nông NDSU có tiếng, và Laurie theo đuổi ngành kế toán vì nàng thích làm việc với con số. Theo truyền thống của dân chúng vùng này, họ sẽ làm đám cưới trước khi tốt nghiệp để khi ra trường đi làm sống chung dưới mái ấm gia đình của riêng mình. Dự định của đôi tình nhân trẻ tan vỡ vì cuộc chiến tranh Việt nam. Thay vì vào đại học để được hoãn dịch, Gabriel tình nguyện nhập ngũ. Chàng giải thích với người yêu, “Học đại học và lập gia đình có thể hoãn lại vài năm, nhưng bổn phận chiến đấu bảo vệ lý tưởng tự do chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản không thể trì hoãn.” Laurie đi học NDSU một mình, lần đầu tiên đến trường không có Gabriel. Chàng được gửi sang Việt nam một ngày đầu xuân 1970, hăng say chiến đấu, viết thư về nhà hàng tuần, và tường thuật về đời sống quân ngũ – vất vả nhưng rất bổ ích. Chàng yêu mến đất nước có cảnh trí tuyệt đẹp và dân chúng hiếu khách đến không ngờ ấy. Hai năm sau, trước khi cuộc chiến trở nên sôi động vào mùa hè năm 1972, chàng tái đăng phục vụ thêm một nhiệm kỳ nữa, và đơn vị chàng di chuyển về đóng gần Tây Ninh. Giữa tháng Sáu năm 1972, trong một chuyến tuần tiễu, tiểu đội của Gabriel bị Việt Cộng phục kích, và chàng bị bắt dẫn đi mất tích. Gia đình chàng và Laurie hy vọng Gabriel sẽ được trao trả theo quy chế tù binh của Hiệp định Paris 1973, nhưng rồi thất vọng ê chề vì chàng vẫn bặt vô âm tín. Họ cố bám víu vào niềm tin Gabriel còn sống và mong chờ một ngày nào đó chàng sẽ trở về. Ba năm trôi qua, cuối tháng Tư vừa qua, bộ Quốc phòng chính thức tuyên bố chàng tử trận, kết liễu mọi hy vọng mong manh của thân nhân. Laurie tức tưởi, “Không biết Gabriel mất vào ngày nào, gia đình anh ấy dùng lễ Chiến sĩ Trận vong làm ngày giỗ hàng năm. Ngày giỗ đầu năm nay, họ tổ chức lễ tưởng niệm tại nhà thờ anh rửa tội ngày mới ra đời.” “Tôi rất lấy làm tiếc về sự mất mát của cô. Lễ tưởng niệm cho Gabriel ở đâu và lúc mấy giờ?” tôi an ủy nàng.“Lễ cử hành lúc 10 giờ sáng thứ Hai ở Glen Ullin, đúng hơn tại một nhà thờ miền quê nhỏ cách Glen Ullin chừng mười dặm Anh về hướng bắc,” nàng vừa nói vừa lấy khăn chặm nước mắt, “Anh là người Việt tỵ nạn được nhiều người trong công ty mến phục. Tôi biết Gabriel sẽ rất thích gặp’ một người Việt như anh nên định mời anh chị tới dự. Lỗi tại tôi cứ chần chờ, hôm nay nói chuyện với anh thì quá trễ.” Glen Ullin là một thành phố nhỏ chừng 1,200 dân nằm cách Bismarck chừng 50 dặm Anh về phía tây. Tôi nhíu mày suy nghĩ, “Chúng tôi câu cá và cắm trại ở hồ Sweet Briar gần Glen Ullin và sẽ đến nhà bạn tôi là Phượng và Dean cũng ở phía bắc Glen Ullin, có lẽ không xa nhà thờ đó lắm đâu. Nếu cô còn có ý định mời thì tôi sẽ sung sướng nhận lời.” “Thật vậy sao? Cám ơn anh nhiều lắm. Từ nhà bạn anh, đi băng qua đường và cái sân rộng là tới nhà thờ,” nàng mừng khấp khởi. “Cô quen với vợ chồng bạn tôi sao?” tôi hơi ngạc nhiên. “Thảo nào lúc tôi mời anh chị ấy, Phượng nói sẽ có khách đến thăm nên không dự được. Dean là anh họ của tôi; dân Na Uy chúng tôi ở vùng này toàn là bà con họ hàng với nhau cả,” bây giờ tôi mới thấy nàng cười vui; Na Uy là một trong bốn nhóm chủng tộc chính ở North Dakota, ba nhóm kia là Đức, Nga, và Ái Nhĩ Lan. * * * Ngủ đêm ở nhà Phượng và Dean, sáng thứ Hai tôi và Quỳnh Châu sang nhà thờ dự lễ tưởng niệm. Nhà thờ nhỏ không có mục sư thường trực nên phải mời một mục sư trẻ ở Bismarck có họ với gia đình Gabriel lên làm chủ tế. Không khí trang nghiêm nhưng không buồn bã vì người Mỹ quan niệm tưởng niệm người quá cố là để kỷ niệm đời sống của người ấy. Tấm chân dung lớn của Gabriel mang lễ phục bộ binh màu cứt ngựa nằm giữa các bình hoa tươi trên chiếc bàn nhỏ trước mặt mọi người. Mục sư xen kẽ đọc thánh kinh, điều khiển cử tọa hát thánh ca, và lần lượt mời thân nhân và bạn bè lên chia xẻ kỷ niệm buồn vui với Gabriel – phần chính của buổi lễ. Tôi đặc biệt chú ý phần trình bày của Eric, em song sinh của Gabriel. Eric là em vì ra đời sau Gabriel mười phút và trông giống Gabriel trong hình như đúc. Eric nói trong nước mắt, Gabriel, từ lúc sinh ra và lớn lên, anh em mình không rời nhau nửa bước, cho đến khi em tiễn anh ra phi trường đi xuống Đồn Benning dự khóa huấn luyện bộ binh căn bản. Không ngờ đó là lần cuối cùng em thấy mặt anh. Em biết anh yêu Laurie vô vàn. Nàng sống trong tuyệt vọng và khổ đau suốt bốn năm qua. Em hứa với anh, em sẽ thay anh mang hạnh phúc đến cho nàng. Đó là điều em làm được và sẽ làm, nàng xứng đáng được như thế. Anh hãy yên nghỉ trong bình yên. Đồn Benning nằm hàng hai trên biên giới hai tiểu bang Alabama và Georgia là một căn cứ Lục quân rất lớn và là nhà của một số trường huấn luyện quân sự nổi tiếng, trong đó có Trường Bộ binh. Tiếp theo Eric, Laurie với đôi mắt đȁm lệ trình bày bức thư cuối cùng của Gabriel. Thư viết đêm mồng 10 tháng Sáu năm 1972, hai ngày sau khi chàng trông thấy cô bé Kim Phúc chín tuổi chạy trần truồng ra khỏi đám lửa của bom na-pan napalm đằng sau lưng trên Quốc lộ 1 tại Trảng Bàng thuộc Tây Ninh. Phóng viên nhiếp ảnh Nick Út của thông tấn xã AssociatedPress chụp được bức hình của Kim Phúc trong giây phút đó, truyền đi khắp thế giới, và đoạt giải Pulitzer về báo chí năm 1973. Trong đêm mưa nhiệt đới ấy, Gabriel xúc động viết thư kể lại và kèm theo bài thơ trong đó có một đoạn, But still the branches are wire And thunder is the pounding mortar, Still I close my eyes and see the girl Running from her village, napalm Stuck to her dress like jelly, Her hands reaching for the no one Who waits in waves of heat before her. Nhưng cành cây vȁn là cuộn kẽm gai Và sấm sét là súng cối pháo kích ầm ầm, Tôi nhắm mắt nhưng vȁn thấy cô bé ấy Chạy từ trong làng ra, na-pan Bám chặt vào quần áo cô như thể thạch đông, Hai bàn tay cô giương ra tìm đến người “không ai” Đợi trong cơn sóng thiêu đốt trước mặt cô. Bruce Weigl – “Song of Napalm” [Bài ca Na-pan] Thư đến tay Laurie vài ngày sau khi gia đình Gabriel được báo tin chàng bị mất tích. Tôi chưa hết bàng hoàng vì lời kể của nàng thì sau buổi lễ, trong bữa cơm trưa gia đình Gabriel khoản đãi ở hậu phòng nhà thờ, lại chứng kiến một cảnh cảm động khác. Đợi mọi người lấy đồ ăn và ngồi vào bàn xong xuôi, Eric dìu Laurie tới phía trước, quỳ gối trên chân trái, lấy hộp nhȁn trong túi ra, và nâng lên bằng cả hai tay, “Laurie Amy Ricker, đây là chiếc nhȁn đính hôn của mẹ tôi. Xin em ban cho tôi cái hân hạnh lớn nhất đời là làm chồng em. Tôi sẽ hiến dâng cho em mọi thứ tôi có được trên đời này.” Amy là tên giữa và Ricker là họ của Laurie. Tôi biết nàng sẽ không còn mang họ Ricker bao lâu nữa Nàng cười trong nước mắt nhận lời cầu hôn của Eric, và đàn bà tây phương lấy họ chồng sau khi thành hôn. Trong suốt buổi lễ hôm nay, các người Mỹ nhớ về quá khứ đau buồn, nhưng họ không hề than vãn, oán trách, hay căm hờn. Thật đáng phục, ước gì tôi làm được như họ! Nhưng làm sao tôiquên được hận thù khi bọn người man rợ tàn ác tiếp tục cướp bóc, đày đọa, và giết lần mòn dân tôi trên mảnh đất nhỏ bé bên kia bờ Thái bình dương? Vết thù trong lòng khó thể nhạt phai. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 31 tháng Ba, 2021Hồn Thiếu Nữ Tối Lễ Độc Lập Mấy người bạn người Việt của tôi thường gọi đùa Mạc là “thằng cu bụi đời” vì tôi và Quỳnh Châu đi đâu cũng “tha” bé theo, để ở nhà không có người giữ. Chúng tôi quấn bé vào trong chăn, đặt trong cái rổ mang em bé và nịt lại, và đặt rổ dưới sàn xe để rổ không di chuyển khi xe chạy nhanh hay thắng gấp. Bé dễ tính, thường không hay khóc hay quấy rầy, miễn là no sữa và sạch tả. Trong cái túi xắc có dải mang vai đựng tả, bình sữa, và các vật dụng lỉnh kỉnh khác, Quỳnh Châu luôn luôn thủ sẵn một cặp núm vú giả của trẻ con. Cái núm vú giả tiếng Anh “pacifier” nghe rất . . . oai là người hay vật dẹp yên, dẹp loạn, hay bình định, để cho Mạc ngậm và giữ bé nằm im lặng, không khóc oe oe rầy rà, khi nàng cần làm việc với người lớn. Hôm nay, sau một chuyến đi thông dịch cho người đồng hương xin welfare và food stamps, Quỳnh Châu nựng bé và cũng để trách yêu tôi, “Con của má mới từng này mà đã đi giang hồ giống ba. Mai mốt lớn lên thành Lệnh Hồ Xung trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung cho thiên hạ biết tay!” “Ba nó nhờ làm Lệnh Hồ Xung vô chiêu thắng hữu chiêu’ mà vớ được mụ vợ dễ thương hết sảy là nàng Nhậm Doanh Doanh này đó,” tôi cười khà khà đáp lại. “Xí, người ta’ thương mình’ là thương cái học giỏi, cái thông minh, chớ cái dzụ giang hồ vặt của mình’ thì mấy năm sau mới xảy ra. Khi đó người ta’ đã lỡ thương rồi. Trót vì tay đã nhúng chàm, dại rồi còn biết khôn làm sao đây!” nàng cong môi đáp bằng hai câu Kiều. “Người ta nói thánh nhân đãi kẻ khù khờ, mèo mù vớ cá rán, là chồng em đó,” tôi chấp nhận một . . . sự thực phũ phàng. Chợt nhớ ra cuộc phiêu du sắp tới của Mạc, Quỳnh Châu nắm tay tôi nhắc nhở, “Cô Bình nhà mình khoái cu Mạc như điên, khen thằng nhỏ bụ bẫm má phinh phính ngó mà muốn cắn một cái, và muốn khoe cháu với bạn nên hẹn vợ chồng mình tối Chủ Nhật tới đưa con lên capitol nghe nhạc và xem pháo bông.” “Capitol” là khu nhà chính quyền trung ương tiểu bang làm việc, cách apartment chúng tôi ở không tới ba khu phố. Tòa nhà chính của capitol là ngôi tháp hình hộp 21 tầng mà cửa sổ đặc biệt dùng để trang hoàng thủ phủ Bismarck vào dịp lễ lạt. Mùa Giáng sinh, ban đêm mành mành màu đỏ và xanh lá cây được kéo lên cửa sổ và đèn thắp sáng bên trong các văn phòng được chỉ định để cho thấy hình cây Nô-en. Đêm “trừ tịch” trước Tết tây, đèn thắp sáng để báo hiệu năm mới; hai số đầu “19” nằm bên trên, và hai số sau “76” nằm bên dưới. Để mừng lễ Độc lập, đèn lại thắp sáng để viết thành “4TH ” tức là ngày mồng bốn. Lễ Độc lập cử hành vào ngày mồng bốn tháng Bảy, năm nay 1976 nhằm ngày Chủ Nhật. Ngày này 200 năm trước, 13 thuộc địa họp lại, tuyên bố độc lập với Anh quốc, và thành lập Hợp chúng quốc Hoa kỳ. Năm nay, trong các cuộc lễ ăn mừng sinh nhật lần thứ 200 của đất nước, mọi người tham dự đều mặc áo quần, đội mũ, và quàng khăn có ba màu đỏ trắng xanh – màu cờ Hoa kỳ. Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến cảnh mừng lễ Độc lập và lại được nghỉ “bắc cầu”sang ngày thứ Hai. Nếu một ngày lễ rơi vào thứ Bảy, sẽ được nghỉ “bắc cầu” qua ngày thứ Sáu trước đó. Sáng thứ Bảy, tôi được xem tận mắt cuộc diễn hành đầy màu sắc và sống động trên đường phố mà trước đây chỉ thấy trong phim xi-nê. Ban nhạc diễn hành của các trường trung học trong tiểu bang mang đồng phục tuyệt đẹp và sử dụng nhạc khí bóng loáng tụ về khoe tài, xen lẫn với xe hoa của các đoàn thể xã hội và chính trị và xe trình diễn của các công ty hay cơ sở thương mại khắp tiểu bang. North Dakota là tiểu bang chuyên về nông nghiệp và chăn nuôi nên rodeo không thể vắng bóng trong dịp lễ trọng đại này. Bắt nguồn từ Tây Ban Nha và Mễ Tây Cơ và lan rộng ra khắp châu Mỹ và các quốc gia khác, rodeo là môn thể thao cỡi ngựa để thi thố kỹ năng cần thiết trong việc chăn bò. Các môn tranh tài hào hứng thường gồm quăng dây thừng bắt bê và trói lại, rượt theo vật lộn và chế ngự bò đực, cỡi ngựa chứng không yên, cỡi bò tót đang vùng vẫy hất người cỡi xuống, và cỡi ngựa chạy quanh các thùng phuy xếp vòng vèo theo hình lá cây chĩa ba cloverleaf. Rodeo diễn ra suốt ngày Chủ Nhật ở Mandan, thành phố sinh đôi và cách Bismarck bảy dặm Anh, và thu hút cowboy cao bồi hay người chăn bò nam và cowgirl nữ khắp nơi, kể cả các tiểu bang lân cận, đổ về so tài. Dân thành phố mê ăn uống như tôi thì khoái street fair hội chợ ngoài đường phố hơn. Trong hai ngày thứ Sáu và thứ Bảy, người ta ngăn khu thị tứ dưới phố lại, không cho xe cộ đi qua để làm hội chợ. Các lò nướng ngoài trời nướng thịt ướp gia vị bay mùi thơm phức, Quỳnh Châu mê đùi gà tây nướng, và tôi khoái thịt bò kèm với thịt cừu nướng theo kiểu Hy Lạp gọi là gyro. Ngoài ra có xe bán món ăn đặc thù của các dân tộc khác nhau như Ái Nhĩ Lan, Đức, Na Uy, Nga, và nhiều kiosk bán áo quần may tại gia, tranh vẽ cảnh vật, và các sản phẩm thủ công nghệ khác. Trên sân khấu lộ thiên, nghệ sĩ địa phương thay nhau trình diễn giúp vui liên tục từ trưa đến tối. Buổi tối ngày lễ Độc lập, dân chúng tụ tập trên bãi cỏ xanh mướt rộng mênh mông trước capitol để nghe nhạc và xem pháo bông. Đó là nơi Bình hẹn gặp chúng tôi. Số người tham dự năm nayđược dự đoán lên đến trên 30 ngàn. Người ta mang theo lawn chair ghế để ngoài trời để dùng trên bãi cỏ hay ngoài vườn và các tấm trải để ngồi hay nằm thưởng thức hòa nhạc do ban nhạc đại hòa tấu của thành phố trình diễn trên sân khấu ở bậc thềm capitol. Khoảng 10 giờ đêm, trời tối, màn bắn pháo bông bắt đầu; ban nhạc tiếp tục đánh đến khi hết pháo bông. * * * Đầu tháng Bảy, tám giờ tối mà trời còn sáng. Cơm nước xong, tôi và Quỳnh Châu sửa soạn đem Mạc lên capitol dự hội. Trên bãi cỏ đã có rất đông người, Bình và vài người bạn Mỹ học cùng lớp trên Đại học Cộng đồng Bismarck BJC đến trước giành chỗ sẵn cho chúng tôi. Tôi ứa nước mắt ôm chặt cô em gái duy nhất và là đứa em từng sống gần gũi với tôi nhất; ở cùng một thành phố mà hơn năm tháng nay anh em tôi mới gặp lại nhau. Các bạn của Bình biết ý đi ra nơi khác để chúng tôi nói chuyện riêng tư. Chung quanh tôi, vài người hóa trang thành Uncle Sam chú Sam, đội mũ chóp cao màu trắng có sao trắng trên dải xanh, và mặc áo đuôi tôm màu xanh và quần sọc đỏ và trắng, và đôi ba phụ nữ ăn vận trang điểm như phu nhân đi dự dạ hội thời Cách mạng Hoa kỳ năm 1776. Tôi và Bình đang tỉ tê tâm sự trong khi Quỳnh Châu cho Mạc bú sữa thì một thiếu nữ bỗng ghé lại bắt chuyện với Quỳnh Châu, “Chào bà, tôi là Emma Lander. Tôi nhận ra bà vì bà xuất hiện trên tờ Bismarck Tribune trước đây không lâu, khi sinh người Mỹ gốc Việt đầu tiên của North Dakota. Chắc là chú bé này đây? Trông chú ngoan quá, vừa bú vừa yên lặng thưởng thức âm nhạc như người lớn.” “Dạ phải, cám ơn cô. Tối hôm nay trời đẹp tuyệt vời, chúng tôi mừng lễ Độc lập lần đầu tiên từ khi đến Bismarck,” Quỳnh Châu niềm nở trả lời. “Ngôi tháp capitol đẹp quá bà nhỉ. Tôi nhớ như in, một buổi sáng sớm cuối năm 1930, tôi khóc ròng khi đứng nhìn tòa capitol cũ chìm trong biển lửa. Tôi theo cha dự lễ động thổ xây cất tòa capitol mới này, nhưng không bao giờ có cơ hội dự lễ khánh thành,” cô kia buồn rầu nói. Trước mặt tôi là một thiếu nữ mười chín, hai mươi tuổi, người cao và thanh nhã, và mặt đẹp một cách thần bí. Cô để kiểu tóc và mang trang phục của thập niên 1930, tức là thời đại khủng hoảng kinh tế. Tôi chào cô và nói cho có chuyện, “Ban hòa tấu đánh nhạc thật hay. Không biết lúc nào bắn pháo bông?” “Ông bà đừng nóng ruột, mùa này mặt trời lặn trễ, và đợi tối trời bắn pháo bông lên mới thấy rõ và đẹp,” thiếu nữ mỉm cười. “Emma, cô thật tài, thiên hạ đông đảo thế này mà cô nhận ra chúng tôi. Trước đây chúng mình gặp nhau lần nào chưa?” tôi không khỏi thắc mắc. “Có lúc mình là hàng xóm láng giềng với nhau. Nhà tôi ở ngay góc đường,” cô trả lời lửng lơ. Buổi tối vui vẻ và thoải mái, nhưng Quỳnh Châu không khỏi băn khoăn về Emma. Vài ngày sau, Quỳnh Châu trở lại chuyện ấy, “Mấy người bạn dạy trên trường BJC nói hàng năm cứ tối mồng bốn tháng Bảy là có một cô Emma xuất hiện trong lễ ăn mừng trên capitol, gợi chuyện với vài ba người, kể chuyện capitol cũ bị cháy, và sau đó biến mất. Không ai gặp lại hay biết cổ ở đâu.” “Không ai chịu khó truy tầm tông tích cô ấy sao?” tôi ngạc nhiên.“Căn cứ theo lời kể và họ Lander của cổ, bạn em tin cổ là con gái đầu lòng trong số bốn cô con gái của Thống đốc Bill Lander, nhân vật mà một sử gia gọi là bậc thầy về hí trường chính trị,’” nàng hé mở bức màn bí mật và kể chuyện vị thống đốc này. Ông Lander là bộ trưởng bộ tư pháp và là ứng cử viên thống đốc khi lễ động thổ xây tòa capitol mới cử hành vào trung tuần tháng Tám năm 1932. Cuối năm ấy ông đắc cử, đầu năm 1933 nhậm chức, và không bao lâu sau bị công tố viên liên bang là kẻ thù chính trị truy tố về tội “âm mưu lường gạt chính phủ liên bang.” Năm 1934 tòa án liên bang xử, quan tòa lại là một kẻ thù chính trị khác. Ông Lander bị tuyên xử có tội và bị Tối cao Pháp viện North Dakota cách chức. Ông bèn tụ hợp chừng mười người bạn, tuyên bố North Dakota độc lập với liên bang, ban hành luật khẩn cấp, và cố thủ trong dinh thống đốc đến khi gặp mặt tối cao pháp viện. Rốt cuộc, ông nhượng bộ và trao quyền cho phó thống đốc lên thay thế. Cuối năm 1934, vợ ông Lander ra tranh cử thống đốc nhưng thất cử. Năm 1935, ông chống án thành công, và tòa phá án ra lệnh tòa dưới xử lại. Tòa xử lần thứ hai dưới sự điều khiển của ông quan tòa cũ, phụ thẩm đoàn luận tội lại bị hung “treo” hay lơ lửng, tức là không đạt được kết luận có tội hay không, và ông công tố viên cũ quyết định đưa ra xử lại. Trong lúc đợi xử lần thứ ba, ông Lander lại bị truy tố về tội man khai khi tuyên thệ nói sự thực, bị đưa ra xử ở một phiên tòa khác, và được tha bổng. Trong phiên tòa xử lại, ông thành công trong việc yêu cầu thay thế vị quan tòa cũ rồi được xử tha bổng. Năm 1936, ông ra ứng cử và tái đắc cử thống đốc. Quỳnh Châu nhắc tôi, “Chống có nhớ Emma nói cổ từng là hàng xóm của mình không? Em về nhà cha mẹ là nơi mình ở hơn sáu tháng lúc mới tới, và cùng Bình đi xem các nhà chung quanh. Ngôi nhà thật lớn sơn màu xanh lá cây ở góc đường đã dùng làm tư dinh của 20 vị thống đốc đầu tiên, kể cả ông Lander, từ năm 1893 đến năm 1960 thì đóng cửa. Năm đó, tiểu bang xây xong tư dinh mới gần capitol cho thống đốc ở.” “Anh nghe nói người ta đang phục hồi ngôi nhà đó giống như hồi xưa để làm di tích lịch sử cho công chúng xem. Nhưng vợ nói vậy nghĩa là sao?” “Nhà bỏ trống, không ai ở từ năm 1960 mà đến 15 năm sau mình mới tới đây. Cổ là hàng xóm của mình thì là . . . ma vất vưởng trong dinh thống đốc cũ chớ không phải là người!” “Làm sao em biết cô hay bà Emma đã chết thành ma?” tôi gặng hỏi. “Với ôông dôông này phải nói có sách, mách có chứng Em nhờ bà quản thủ thư viện trường BJC tra cứu thì được biết Emma Lander bị bệnh mất vào năm 1935, thời gian cha cô gặp khó khăn nhất. Lúc đó, cô mười chín tuổi và còn độc thân.” Lúc sinh tiền, Emma chưa được thấy tòa capitol mới hoàn thành và chính thức hoạt động. Ngày nay, hồn ma của cô trở về chốn cũ ăn mừng lễ Độc lập với đồng bào. Ước gì tôi được gặp cô lần nữa. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 14 tháng Tư, 2021Ai Làm Nên Nỗi? Đối với một người Mỹ đi làm việc trung bình, hai hay ba tuần nghỉ phép hàng năm đưa gia đình đi chơi xa về mùa hè là quyền lợi nhân viên quan trọng. Trong thời gian ấy, vợ chồng con cái cùng nhau đi du lịch, thăm viếng thắng cảnh hay địa điểm nổi tiếng, đi ngoại quốc cho biết đó biết đây, và nếu con vào lứa tuổi thiếu niên, đến các khu giải trí được ngưỡng mộ như Disneyland ở nam California hay Disney World ở Florida. Các khu giải trí này có nhiều trò chơi và ride các loại máy móc có ghế ngồi và chuyển động để tạo cảm giác hồi hộp mạnh mẽ cho người “đi” [hay “ride”], mua vé vào chơi cả tuần lễ cũng chưa hết. Tôi làm việc chưa đầy năm nên chưa có phép thường niên. Một số bạn người Việt của tôi có cơ hội đi nghỉ hè, nhưng họ không đi viếng cảnh hay du lịch mà đi thăm bạn bè thân nhân. Cả gia đình hay một nhóm bạn chất hết lên một chiếc xe hơi và thay nhau lái không nghỉ, chỉ ngừng lại đổ xăng và làm công tác vệ sinh. Đến nơi, gia chủ bày sẵn tiệc tiếp đón, khách ngồi vào chén mày chén tao đến khi say túy lúy và đi ngủ. Hôm sau, tiệc rượu lại tiếp diễn. Vài ngày sau, khách lên đường về nhà và lái một mạch như khi đi, mệt nhoài và buồn rầu ủ ê vì vừa chia tay với bạn bè. Anh Phức, Phiến, và thằng Sang em tôi vừa trở về sau một chuyến nghỉ hè như thế. Anh Phức đi sang đây một mình, vợ con còn ở Việt nam, và làm việc trong xưởng dây chuyền lắp ráp của hãng chế tạo máy cày. Phiến độc thân thực sự và làm trong hãng chế tạo trailer nhà di động. Thằng Sang vẫn đi làm trạm xăng và đã dọn ra ở chung với Phiến vì hết chịu đựng nổi bản tính nghiệt ngã của cha. Phiến trạc tuổi thằng Sang, người mập mạp và tốt bụng, nhưng phải tội ăn nói bừa bãi và khoái chê bai anh Phức. Anh quê ở làng Mỹ Lợi cách Huế chừng 30 cây số về phía đông nam, làng duy nhất nằm trong tỉnh Thừa Thiên mà dân chúng lại nói giọng Quảng Nam. Phiến giễu cợt cách phát âm của anh qua mẩu chuyện khôi hài, Hỏi Tại sao người làng anh Phức không biết ngồi xe lam hay đi xe đạp? Đáp Vì họ chỉ ngồi xe lôm và đi xe độp. Xe lam là loại xe thùng nhỏ có ba bánh dùng làm phương tiện chuyên chở công cộng của giới bình dân. Anh Phức làm ca đêm, ban ngày lái xe lòng vòng thăm các bà độc thân có con mà không chồng, nhưng mật ít ruồi nhiều, không dễ dầu gì lọt vào mắt xanh của họ. Phiến chọc ghẹo anh bằng câu ca dao, Em như cục cứt trôi sông, Anh như con chó chạy rông trên bờ. Anh Phức tức giận la lên, “Trâu buộc ghét trâu ăn! Cái thằng Phiến này, mi ganh tị vì thấy tao đẹp trai nói chuyện có duyên được các em’ mê tít thò lò.” “Anh có số đào hoa mà sao suốt ngày vác bộ đồ nghề’ chạy rông, chẳng nên cơm cháo gì?” Phiến cười cười. “Mi cũng xách củ cải’ chạy rông như tao chớ giỏi giang chi?”“Sức mấy! Tui là trai tơ, súng ống chưa sử dụng, chưa nếm mùi đời, chay tịnh không sao. Còn ai đó’ từng trải chuyện đời mới ăn quen nhịn không quen,” Phiến phản pháo. Chuyến nghỉ hè của ba người thực hiện được nhờ xưởng dây chuyền lắp ráp của anh Phức cho nhân công nghỉ một tuần để bảo trì máy móc. Anh rủ Phiến và thằng Sang đi thăm gia đình người anh vợ anh ở ngoại ô Chicago thuộc tiểu bang Illinois. Lần đầu tiên có dịp đi xa nên tuy phải xin nghỉ làm không ăn lương, Phiến và thằng Sang sốt sắng nhận lời, nhất là khi nghe nói gia đình đó có hai cô em gái trẻ tuổi độc thân – biết đâu đấy! Người đi xa về có thật nhiều chuyện để kể cho mấy tay nhà quê chưa có dịp ra khỏi North Dakota như tôi. Chicago có nhiều người Việt định cư, họ liên lạc được với thân nhân trên khắp thế giới và có đầy đủ tin tức Việt nam mà nhiều tháng nay báo chí Hoa kỳ hầu như quên bẵng. Nhờ vậy, tôi biết được những thủ đoạn cướp bóc trắng trợn và trả thù độc ác của chính quyền mới. Như “tiếp quản” các xí nghiệp tư và các trường đại học và trung học tư, bắt dân chúng đổi tiền nhưng chỉ cho đổi rất giới hạn – số tiền mồ hôi nước mắt còn lại bị mất toi, “đánh tư sản mại bản,” đày đọa “ngụy quân ngụy quyền” đi “học tập cải tạo,” và “tịch biên” nhà cửa và tài sản của gia đình họ, Đám dân thường sống khật khừ người không ra người bên ngoài nhà tù thì Lao động là vinh quang, Lang thang là chết đói, Hay nói thì ở tù, Lù khù thì đi kinh tế mới. Trong khi anh Phức và Phiến ba hoa về đời sống thành phố lớn trong bữa nhậu cuối tuần, thằng Sang đi làm bù cho những ngày nghỉ. Hơn một tuần sau ngày đi Chicago về, chiều thứ Sáu nó gọi điện thoại vào sở cho tôi, “Hôm nay anh cúp cua về sớm một bữa đi. Ra ba bar gần trạm xăng uống bia, tui bao. Làm cho lắm, tắm cũng ở truồng!” Hai anh em tôi uống bia chay không đồ nhắm như người Mỹ. Khi uống đủ đô dose, thằng Sang mở lời, “Anh còn nhớ thằng Khắc bạn học của tui ở Tuy Hòa không?” “Thằng Khắc hiền hiền ngu ngu, sau khi thi đậu Tú tài II, đi sĩ quan Hải quân, và về Tuy Hòa phục vụ trong đội Hải Thuyền đóng gần bãi biển Đông Tác; anh biết nó mà,” tôi gật đầu. “Lúc tụi tui vừa tới nơi, ông anh vợ anh Phức bày sẵn tiệc tẩy trần, và một lô bạn Hải quân ở quanh vùng ngồi chờ. Thằng Khắc là một trong mấy thằng Hai quần đó.” “Mừng mày gặp lại bạn cũ,” nhưng tôi chờ nó đi vào chuyện chính. “Nó dȁn theo con bồ sắp cưới, tui thấy là muốn nhảy dựng lên. Anh tin được không, bồ nó là con Hạnh Thúy Phan Thiết?” Mùa hè năm 1971, thằng Sang bị gọi nhập ngũ vào trường Bộ binh Thủ Đức, ra trường được chọn đi Pháo binh và gửi đi học ở trung tâm Huấn luyện Pháo binh ở Dục Mỹ, và được bổ về tiểu khu Bình Thuận ở Phan Thiết làm sĩ quan tiền sát gọi là đi đề-lô. Ở thành phố duyên hải duyên dáng hiền hòa này, nó làm quen với Hạnh Thúy, cô nữ sinh lớp 12 trường trung học PhanBội Châu, và dần dần tình yêu hai người lớn mạnh. Cha mẹ nàng là thương gia giàu có, không phản đối, và cho phép nàng dự liên hoan của sĩ quan tiểu khu với em tôi vào các dịp lễ lạt lớn. Ngày được thăng chức thiếu úy, thằng Sang hớn hở đến nhà Hạnh Thúy dự định ngỏ chuyện hôn nhân thì bị nói thẳng vào mặt là cha mẹ nàng đã quyết định gả con gái cho Trung úy Tạo, y sĩ trưởng Trung đoàn XX đóng ở Sông Mao. Mang mặc cảm thua kém tình địch, thằng Sang đau lòng ôm mối hận tình xin ra cầm trung đội Pháo binh đặt ngoài Phan Thiết và không lai vãng về thành phố. Ít lâu sau, dư luận tỉnh nhỏ đồn Bác sĩ Tạo bỏ rơi Hạnh Thúy để cưới cô con gái mười sáu tuổi của vị tướng tư lệnh sư đoàn và đổi về Sài gòn làm việc. Người ta cũng vô tuyến truyền miệng Hạnh Thúy và đứa em trai “lên Đà Lạt học,” nghĩa là nàng mang bụng bầu lên đó sinh con. Giọng nói của thằng Sang mang một chút tiếc nuối, “Phải công nhận gái một con trông mòn con mắt, con Thúy càng ngày càng đẹp. Nhưng cặp với thằng Khắc cù lần lửa thì đúng là bánh bột lọc cho ngâu vọc.” “Sao mày không nhào dzô lại? Thời buổi người khôn của khó dễ gì mà kiếm được người như Thúy?” tôi gợi ý. “Làm sao tui quên được nỗi nhục nhã đắng cay khi bị em’ đá ra rìa? Đứa con thằng Tạo tặng’ cho em’ trước khi quất ngựa truy phong còn đó; con Thị Mầu sao nỡ biểu Thị Kính này nuôi?” “Có bao giờ nói mày chuyện với Thúy về đứa bé, trai hay gái và tên gì không?” “Tui đâu có dư thì giờ mà hỏi thăm con hoang của thằng Sở Khanh đó,” nó nói chắc nịch. Thằng Sang không ngờ rằng cô bé tên là Thúy Sang, do “Hạnh Thúy” và “Sang” ghép lại, và thực ra là con của nó. Đầu tháng Tư năm ngoái 1975, khi Đà Lạt thất thủ, nàng ôm con cùng thằng em trai chạy về Sài gòn ở đỡ nhà người bà con trong Chợ Lớn. Nàng vào trường Phú Thọ gặp tôi trước rồi mới đến nhà tìm thằng Sang. Khi nói chuyện riêng với tôi, nàng tiết lộ nhưng bắt tôi phải cam đoan giữ kín, “Cuối năm 1973, anh Sang đưa em đi dự tiệc tất niên Quý Sửu của sĩ quan tiểu khu, bị bạn bè chuốc rượu say nhừ, và đưa em về nhà. Hai đứa không kềm chế được lòng mình và dâng hiến cho nhau. Hôm sau tỉnh rượu, ảnh không nhớ cuộc ái ân đêm qua. Khổ nỗi em ngu tận mạng, không hay mình dính bầu do cái lần đầu tiên và độc nhất đó, cho đến sau ngày ba má nhận lời cầu hôn của gia đình anh Tạo và ép em lấy ảnh. Ảnh khám phá ra bụng bầu của em và từ hôn.” Khi Hạnh Thúy đến nhà thăm và gặp mẹ, thằng Sang đưa nàng về và đi chơi qua đêm. Trái với sự mong ước thiết tha của tôi, hai kẻ yêu nhau một lần nữa quay lưng lại với nhau. * * * Khoảng một tháng sau khi nói chuyện với thằng Sang, tôi được công ty gửi đi Chicago dự hội nghị về phương pháp khảo sát hệ thống điện, chuyến đi công tác xa đầu tiên của tôi. Hội nghị từ thứ Tư đến thứ Sáu, tôi ở lại cuối tuần, lục niên giám điện thoại và hỏi tổng đài tìm số điện thoại của Hạnh Thúy, và gọi hẹn gặp nàng đi ăn tối ở phố Tàu. Thấy tôi, nàng vui mừng chạy lại ôm khóc rưng rức; tôi hỏi,“Nhỏ Thúy Sang khỏe không, bây giờ biết làm gì rồi?” “Dạ, cháu mới biết đi lȁm đȁm và nói bập bẹ vài tiếng. Cháu ở nhà với ông bà ngoại vì em đi làm và đi học suốt ngày,” nàng lấy khăn chặm nước mắt. “Thực không ngờ em và gia đình đi được sang đây. Hồi đó, anh tưởng em sẽ đưa cháu về Phan Thiết.” “Ban đầu em tính vậy. Nhưng khi về nhà người bà con thì được tin đường sá ở Phan Thiết tràn ngập xe cộ của đoàn di tản từ các tỉnh phía bắc chạy vào, chợ Phan Thiết bị cháy rụi, và tỉnh nhà trở thành tuyến địa đầu chống lại quân Cộng sản. May quá, ba má kịp thời bỏ nhà bỏ cửa kéo mấy đứa em chạy thoát thân vào Sài gòn. Cả nhà tụ lại một chỗ và sau đó theo tàu Hải quân di tản sang đây.” Hạnh Thúy kể chuyện vừa qua, “Trong trại tỵ nạn Đồn Chaffee em gặp lại anh Tạo. Ảnh đi một mình vì cô vợ trẻ ở nhà cha mẹ cổ và ông tướng anh hùng nhất định không rời khỏi nước và cũng không cho phép gia đình ra đi.” “Và anh ta ngỏ ý muốn chắp nối với em, phải không?” tôi hỏi đùa. “Sao anh biết hay quá vậy?” nàng tưởng tôi nói thực, “Ảnh đề nghị hai đứa xáp lại sống chung, khai là vợ chồng và bé Sang là con ảnh, và làm lại từ đầu.” “Sao em không nhận lời?” “Ảnh tưởng nhỏ Thúy ít học ngu si này ham lấy bác sĩ lắm nên đui mắt, không thấy cái dây thòng lọng thắt cổ. Em hỏi ảnh, Chừng mai mốt vợ anh lù lù qua đây thì tính làm sao?’ Ảnh tịt ngòi luôn.” Hạnh Thúy nói về cuộc sống hiện tại, “Ba má đã có tuổi, ở nhà ăn trợ cấp chính phủ và giữ cháu. Ban ngày em làm bồi bàn tiệm Tàu, buổi tối đi học Anh văn và học thi lấy bằng GED.” GED general equivalency diploma là bằng tương đương với chứng chỉ tốt nghiệp trung học. “Nhất em rồi! Không phải ai cũng chịu khó và có tinh thần cầu tiến như em; thằng Sang tối ngày chỉ lo ăn nhậu,” tôi thành thật khen nàng, “Nhưng sao anh nghe nói em sắp lập gia đình với Khắc bạn nó?” “Không có đâu anh. Bữa đó em tới giúp làm tiệc vì em là bạn thân của em gái chủ nhà. Em biểu hai cô ấy nói vậy để chọc cho ảnh tức chơi. Em sợ đàn ông lắm rồi anh ơi!” Trên chuyến bay từ phi trường O’Hare Chicago về Bismarck chiều Chủ Nhật, tôi lẩn thẩn tự hỏi tại sao bé Thúy Sang lớn lên không có cha. Lỗi tại ai? Do cha mẹ Hạnh Thúy gây ra thảm kịch này? Hay vì thằng Sang đã tạo ra bé mà không hay biết bé hiện hữu? Hay tại Hạnh Thúy câu nệ, tự ái không thèm nói bé là con của nó? Và Bác sĩ Tạo có góp phần khiến nàng “sợ đàn ông lắm rồi” không? Chung quy, chỉ có ông Trời là dễ đổ lỗi, Cho hay duyên số bởi trời, Dầu ai thêu dệt vẽ vời mặc ai. Ca dao Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 28 tháng Tư, 2021Nhiều Nỗi Truân Chuyên Tháng Bảy và tháng Tám là hai tháng nóng nhất trong năm ở Bắc bán cầu. Mặc dù North Dakota nằm phía cực bắc Hoa kỳ, giáp giới với Gia Nã Đại, mùa hè cũng nóng nực như nơi khác. Buổi chiều nhiệt độ có khi lên đến trên 100° Fahrenheit khoảng 38° Celsius, nhưng không khí khô, và ban đêm trời mát xuống nhanh và trở nên dễ chịu. Với thời tiết khá lý tưởng này, vào cuối tuần, đám dân tỵ nạn quen sống vùng nhiệt đới quanh năm nóng và ẩm tha hồ vui hưởng các sinh hoạt tập thể như đi cắm trại, ăn uống và ngủ đêm ngoài trời, đi câu cá, và viếng thăm nông trại để làm gà làm heo và làm bò nướng bê thui. Nhóm bạn tôi gồm một số cựu quân nhân Hải quân như anh Dần và anh Phức và thanh niên độc thân như Phiến, ai nấy đều tháo vát và có nhiều sáng kiến. Hôm ấy, chúng tôi ra thăm nông trại của vợ chồng Phượng và Dean. Thay vì bắt gà “đi bộ” làm thịt như thường lệ, anh Dần bỗng thèm ăn thịt heo tươi, “Ăn thịt heo đông lạnh bán ngoài siêu thị hoài ngán quá,” và nhờ Dean đưa sang trại nuôi heo gần đó mua heo con giết thịt. Anh Dần là kẻ đầu nêu, việc gì anh cũng làm được dễ dàng. Thấy tôi đứng xớ rớ gần con heo vừa bị bắn chết và tỏ bộ muốn phụ giúp, Phiến gạt tôi sang một bên, “Anh Ba Hoa làm thợ vịn chỉ vướng tay vướng chân người khác. Xê ra cho tui nhờ!” Được lời như cởi tấc lòng, tôi lấy thuốc lá ra hút phì phèo, “Xê ra thì xê, sợ gì?” “Coi kìa, ông kỹ sư chừ đứng làm giám thị chỉ huy tụi mình,” anh Dần cười khà khà. “Giám thị gì anh Ba Hoa, giám thị . . . ăn thì có!” đến lượt Phiến mỉa mai. Phiến hay nói xóc óc, nhưng trúng phóc ở điểm tôi vụng về không làm gì ra hồn ngoài việc . . . ăn. Chẳng hạn như khi biết tôi không biết câu cá, anh Dần đưa tôi đi mua cần câu và các dụng cụ cần thiết và chỉ dẫn cách móc mồi, ném dây câu, Tôi ra hồ câu với anh hai lần, lần nào cũng ngồi cả buổi mà không có con cá nào chịu cắn câu. Anh nói tôi không có số “sát cá,” “Thôi anh cứ ngồi chỗ cắm trại đọc sách hay theo đuôi mụ vợ nghe lóm chuyện tò le ngồi lê đôi mách, chờ tui đem cá về.” Từ đó, tôi giữ nhiệm vụ nhóm lửa trong lò đốt bằng than để các bà nướng cá câu được và thịt ướp sẵn ở nhà mang theo. Hôm nay có anh Phức là người khắc khẩu với Phiến, tôi không thể bỏ qua dịp tốt để xúi hai người cãi nhau cho có chuyện cười. Tôi quay sang anh Phức phân trần, “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo. Mấy người này . . . mệt quá; tôi muốn phụ một tay thì không cho, mà đứng ngoài ngó cũng không để cho yên thân.” “Thằng Phiến biết khỉ khô gì mà anh thốc mốc thắc mắc lồm làm chi cho mệt người?” với giọng Quảng Nam, anh nói với tôi nhưng cốt để Phiến nghe. “Tui nghe rồi đó. Anh Phức bữa nay bị mấy mệnh phụ phu nhân’ cho ra rìa, hết chỗ chầu chực, và phải đi chơi với tụi tui sao?” Phiến hỏi móc, ám chỉ anh Phức đi làm ca đêm vàban ngày rảnh rỗi lái xe loanh quanh “thăm” các bà độc thân có con mà không chồng, và không ai đáp lại . . . thịnh tình của anh. “Cái thằng Phiến ni, mi ăn nói ba láp ba xàm nữa thì tao kêu con Thúy Hạc tới chưởi mi một trận cho tởn thói cà chớn,” anh Phức dọa nhưng hiển nhiên đã xuống nước. Thúy Hạc và chồng là Ralph ở thành phố Dickinson có chừng 15,000 dân nằm cách Bismarck 100 dặm Anh về phía tây. Chúng tôi gặp cặp vợ chồng này khi họ đến dự tiệc ăn mừng năm mới 1976 được tổ chức để cám ơn ân nhân bảo trợ và bạn mới trong thành phố. Họ đến trễ, tôi ra đón, và tôi ngẩn ngơ vì trông Thúy Hạc rất quen nhưng không nhớ đã gặp ở đâu. Nàng cũng thȁn thờ, có lẽ cũng vì vậy. Tôi bận rộn lăng xăng nên đưa hai người đến bàn Phiến ngồi và nhờ Phiến tiếp giùm. Ngày phục vụ ở Việt nam, Ralph là đại úy tâm lý chiến, hai người cùng nhau về Mỹ năm 1973, và Ralph làm cán sự xã hội trong dưỡng trí viện Dickinson. Hai người có hai cậu con trai đứa lớn bảy tuổi có khuôn mặt rặt Việt nam và được hai người gọi bằng cái tên nghe từa tựa như “Tuan” mà chúng tôi thầm đoán là “Tuấn,” và đứa nhỏ ba tuổi rõ ràng là con lai. Sau này, dù chơi thân với Thúy Hạc, tôi vȁn không biết gì về thân thế nàng. Nàng thủ khẩu như bình, nói lảng sang chuyện khác khi bị hỏi về đời tư ở bên nhà. Khi cả bọn đi chơi chung, Thúy Hạc bày tỏ cảm tình đặc biệt đối với tôi và đôi khi âu yếm có chiều lả lơi, nhưng nói bằng tiếng Anh nên không ai để ý. Tôi nhận thấy Phiến si mê nàng nhưng không dám bộc lộ mà thỉnh thoảng đùa cợt chớt nhả khiến nàng nổi giận mắng nhiếc thậm tệ. Tuy thích cãi vã, Phiến bị mắng mà vȁn nín khe, không một lời biện bạch. Đó là lý do anh Cấp đem Thúy Hạc ra dọa Phiến. Tôi nghe nói cuối tuần Phiến hay lái xe lên Dickinson, chạy quanh quẩn vài vòng trong thành phố nhỏ, và ngồi hàng giờ ở ghế đá trong công viên trước nhà Thúy Hạc. Một thiếu phụ thông minh, xinh đẹp, và cởi mở như nàng, nếu nhằm lúc, đàn ông ai mà không yêu? Ngay cả tôi, dù có nàng tiên Quỳnh Châu bên cạnh, thỉnh thoảng ngủ mơ thấy mình sánh vai gần gũi Thúy Hạc. Khi tỉnh giấc, tôi cho giấc mơ ấy, theo thuyết phân tâm học của Sigmund Freud 1856 – 1939, phát sinh do ham muốn tình dục bị dồn nén vào tiềm thức. * * * Mùa thu năm 1978, Quỳnh Châu cùng bé Mạc đi Âu châu thăm gia đình nàng, tôi ở nhà đi làm, và một biến cố dị thường xảy đến. Hôm đó là sáng thứ Bảy, tôi lái xe lên Dickinson rồi tiện dịp ghé thăm Thúy Hạc trong khi Ralph chồng nàng đưa hai đứa con về tiểu bang Indiana thăm bà nội. Vào trong nhà, tôi choáng váng trước cảnh mộng huyễn hay thấy trong giấc mơ Thúy Hạc nằm nghiêng trên giường trong bộ áo quần ngủ lụa hồng, tựa đầu lên chiếc gối thêu hoa, và mắt khép mơ màng. Mê mẩn bước lại gần và trước khi cúi xuống hôn lên đôi môi mời mọc như trải qua trong mộng, tôi giật mình thức tỉnh, nhắm nghiền mắt lại để xóa tan mộng cảnh, và bước ra ngoài. Ba ngày sau, tôi nhận được thư của nàng xác nhận điều tôi âm ỷ nghi ngờ nhưng gạt đi, cho là thậm vô lý,Từ ngày gặp anh lần đầu, em luôn ngủ mơ thấy trong một kiếp xa xưa nào đó của em – và của anh, mình là đôi vợ chồng hạnh phúc bên nhau. Rồi tôi được tin vợ chồng Thúy Hạc dựng bảng bán nhà dọn đi nơi khác và không để lại địa chỉ. Khoảng một tuần sau, Phiến đến thăm tôi với vẻ mặt buồn thiu. Tôi lấy bia, loại bia Budweiser thường uống, ra mời, nhưng Phiến lắc đầu và chạy ra xe lấy vào hai xâu 12 lon bia Old Milwaukee. Miệng méo xẹo nhưng Phiến rán ghẹo tôi, “Anh là ông kỹ sư mới uống Budweiser lon trắng, làm bằng gạo, nặng độ rượu hơn, và mắt tiền hơn; tui là dân lao động vinh quang chỉ dám chơi Old Milwaukee vừa nhẹ vừa rẻ.” “Không phải vậy. Tôi uống Budweiser vì ngày sinh viên túi không tiền được mấy ông chú cho uống bia Budweiser chùa. Rồi thành quen thói,” tôi phân trần rồi hỏi, “Hôm nay có chuyện chi mà tôm quá bộ đến nhà rồng?” “Anh biết chị Hạc dọn nhà đi chỗ khác rồi không?” Phiến không dấu vẻ bực bội. “Bây giờ tôi biết rồi. Nhưng mà sao?” Tôi trả lời lửng lơ vì chưa biết chủ ý của Phiến. Dù sao đi nữa, tôi không thể tiết lộ mối liên hệ huyền ảo giữa mình và Thúy Hạc. May thay, dường như muốn chia xẻ niềm tâm sự, Phiến lúng túng mở đầu, “Anh biết tui là người Việt gốc Hoa và hồi trước học trường trung học Mạc Đĩnh Chi không?” “Tôi không biết Phiến là dân ngộ ái nị’ tôi yêu cô/anh, nhưng ngôi trường mang tên vị Lưỡng quốc Trạng nguyên đó thì tôi biết.” Mạc Đĩnh Chi là trường trung học công lập hỗn hợp nam nữ học chung duy nhất ở Sài gòn và được thành lập năm 1957 dưới thời Đệ nhất Cộng hòa, sau khi chính phủ ban hành Dụ hay Sắc lệnh số 53 cấm Hoa kiều làm 13 nghề họ đang nắm độc quyền thao túng thị trường. Nếu muốn giữ nghề cũ, họ phải nhập Việt tịch và hưởng quyền lợi và thi hành bổn phận như những người Việt khác. Trường được lập ra nhằm đáp ứng nhu cầu của học sinh người Việt gốc Hoa chuyển sang học chương trình Việt. Họ được vào học vô điều kiện trong vài niên khóa đầu, dần dần phải thi tuyển với ưu tiên có thêm điểm, và sau đó Việt hóa hoàn toàn. Tiếng Trung Hoa có rất ít đại danh từ để xưng hô, không như tiếng Việt có vô số đại danh từ khác biệt nhau một cách tinh tế. Ngôi thứ nhất tiếng Trung Hoa chỉ có chữ ngã người Quảng Đông phát âm là ngộ, là “tôi” và ngôi thứ hai chỉ có vài ba chữ như nhĩ và nãi cả hai, người Quảng Đông phát âm là nị, là “anh” và “cô”. Do đó, ở Mạc Đĩnh Chi, thầy cô đôi khi nghe học sinh phát biểu những câu tréo cẳng ngỗng như, Thưa thầy, nó đánh tao. hay Thưa cô, mầy hỏi cái gì tao không hiểu? Qua bước đầu, không còn ngượng miệng, Phiến nói về Thúy Hạc, “Chỉ là một hoa khôi của Mạc Đĩnh Chi và trên tui hai lớp. Đứa vô danh tiểu tốt như tui lại cả gan chơi trèo, âm thầm hâm mộ chỉ từ hồi đó.” “Vậy Hạc là người Việt gốc Hoa mà tôi không hay, sao Phiến không nhìn bà con?”“Từ phút đầu tiên, khi anh đưa chỉ lại giới thiệu và nhờ tiếp giùm, tui nhận ra chỉ liền. Nhưng mấy năm nay không dám hé môi nói cho ai biết.” “Tại sao lạ vậy?” “Vì cảnh ngộ, chỉ thay tên đổi họ để trốn lánh mọi người quen cũ,” Phiến trầm ngâm nhớ lại chuyện người đàn bà bí ẩn. Nàng tên thật là Nhan Thủy Thúy, con một của một gia đình thương gia giàu có ở trên đường Lục Tỉnh Chợ Lớn. Mùa thu 1967, sau khi đậu Tú tài II hạng Bình, nàng ghi danh học “chứng chỉ” Lý Hóa Nhiên tức là SPCN Science, Physique, Chimie, et Naturelle ở Đại học Khoa học Sài gòn trong khi làm thủ tục giấy tờ đi Hoa kỳ du học học ngành quản trị xí nghiệp để sau này coi sóc cơ nghiệp gia đình. Người yêu của nàng cũng là cựu học sinh Mạc Đĩnh Chi và đang theo học ngành kiến trúc ở trường Cao đẳng Kiến trúc nằm trên đường Pasteur. Tết Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công vào các thành phố, đột nhập vào Chợ Lớn, và trốn trong nhà dân chúng để bắn ra. Chiếm giữ nhà Thủy Thúy là thằng Việt Cộng cầm đầu “Thành đoàn,” tên gọi tắt của “đoàn Thanh niên Lao động Việt nam,” chuyên giật dây, phá rối, và khủng bố trong hàng ngũ thanh niên, sinh viên, và học sinh ở “nội thành” Sài gòn - Gia Định. Thằng này trước kia giả dạng người Việt gốc Hoa trà trộn vào Mạc Đĩnh Chi, trên nàng ba lớp, và mê nàng như điếu đổ nhưng bị thẳng tay cự tuyệt. Thừa cơ hội đột nhập này, nó dùng võ lực cưỡng bức nàng. Trước khi cùng đồng bọn trốn chạy, nó hứa giữ kín chuyện này nếu hàng tháng cha mẹ nàng nộp một số tiền lớn để “ủng hộ nhân dân miền Nam anh hùng đánh lại đế quốc Mỹ.” Nếu không, nó sẽ công bố chuyện nàng không còn trinh trắng và cho đặc công phá vỡ cơ sở kinh doanh và hạ sát cả gia đình. Kể đến đây, Phiến nén tiếng thở dài thương cảm, “Họa vô đơn chí, chỉ khám phá ra mình mang thai, mộng ước du học trở thành mây khói, và người yêu không còn lai vãng thăm viếng và nghe đâu đã cặp bồ với cô khác.” “Tại thằng Việt Cộng khốn nạn mà ra cả,” tôi tức giận la lớn. “Dù ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã, chỉ đáng mặt là bậc anh thư cho tui tôn thờ. Người ta đồn chỉ bí mật tiếp xúc với cơ quan an ninh và hợp tác để giúp họ tìm cách hốt trọn ổ bọn Việt Cộng nằm vùng. Kế hoạch thành công, mạng lưới đặc công vùng Chợ Lớn bị phá vỡ, và thằng hèn hạ đào tẩu không kịp bị bắn chết. Sau đó, chỉ biến mất; không ai biết chỉ đi đâu và làm gì. Cha mẹ chỉ cũng vậy; nhà cửa và doanh nghiệp đã chuyển nhượng cho người khác.” Điều này giải thích tại sao Thúy Hạc không bao giờ đề cập tới quãng đời ngày trước; cậu bé “Tuan” có lẽ là đứa con oan trái đó. Cuộc đời nàng như được diễn tả bằng lời mở đầu Chinh phụ Ngâm khúc, Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Đặng Trần Côn – Đoàn thị Điểm Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 9 tháng Sáu, 2021Máy Điện Toán và Tôi Tôi làm việc ở nha Điều hành Hệ thống Điện của Công ty Tiện ích Montana-Dakota đã được năm tháng. Ông sếp già Howard để cho tôi tự do chọn làm các dự án thấy hợp với kiến thức lý thuyết của mình. Tôi miệt mài học hỏi phương cách điều hành hệ thống điện và cố gắng thích nghi với vai trò kỹ sư kế hoạch điện lực. Trong môi trường mới, việc tính toán liên quan đến hệ thống điện đòi hỏi hàng ngàn, có khi hàng vạn, con tính nhỏ và không thể làm bằng tay mà phải dùng máy điện toán. Tôi thấy mình thua kém các kỹ sư trẻ của công ty ở chỗ họ đều học FORTRAN và dùng máy điện toán khi còn học trong trường đại học. FORTRAN do “Formula Translation” là phiên dịch công thức là ngôn ngữ thảo chương dùng để tính toán trong các áp dụng khoa học và kỹ thuật. Ở Việt nam, tôi đã tự học lý thuyết máy điện toán, và Ngành Điện của Đại học Kỹ thuật thuộc Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức có một chiếc máy Nova 800 do hãng Data General chế tạo. Tôi cũng đã dự một khóa hội thảo dành cho giảng viên trường Đại học Kỹ thuật dạy thảo chương ngôn ngữ BASIC. BASIC do “Beginner's All-purpose Symbolic Instruction Code” nghĩa là mệnh lệnh dùng ký hiệu đa dụng dành cho người mới học được Đại học Dartmouth thiết kế và phổ biến năm 1964. Nhưng tôi chỉ đứng xa nhìn chứ chưa hề rớ tới chiếc máy Nova, và tầm hiểu biết về máy điện toán và BASIC chỉ là lý thuyết suông. Máy điện toán chính duy nhất của công ty là hệ thống Honeywell 2000 với ký ức có khả năng chứa 32 KB kilobyte, tức một ngàn “byte”. Điện thoại di động ngày nay với ký ức 16, 32, hay 64 GB Gigabyte, tức một tỉ “byte” có khả năng bằng 500 ngàn, một triệu, hay hai triệu lần chiếc máy Honeywell tối tân năm 1976. Máy điện toán này và dụng cụ ngoại biên được đặt trong phòng máy điện toán là một căn phòng lớn ở lầu ba có gắn máy lạnh để làm mát; mạch điện tử khi hoạt động sẽ tỏa nhiệt và nếu nóng lên sẽ bị hư hỏng. Hệ thống được các điều hành viên điện toán trực tiếp điều khiển bằng cách đánh mệnh lệnh vào bàn chữ đặt trên mặt console là bộ phận điều khiển trông giống như cái tủ nhỏ kiểu có chân đứng. Tôi biết mình không thể không biết thảo chương programming FORTRAN và bắt đầu chương trình học ngôn ngữ này bằng cách hỏi anh bạn đồng sự Dennis ngồi kế bên, “Anh còn giữ cuốn sách FORTRAN nào không?” Hình như đã chờ đợi câu hỏi này từ lâu, Dennis lấy từ kệ sách trước mặt đưa cho tôi cuốn sách giáo khoa anh dùng ở đại học và tập tài liệu bìa rời do hãng, -, *, /. Sau khi viết xong mȁu thảo chương, tôi gửi xuống ban Xuyên Phiếu ở lầu ba yêu cầu “đục lỗ và soát lại.” Ban này có hơn một chục nhân viên, toàn là phụ nữ. Họ dùng máy xuyên phiếu trông tựa như một chiếc máy chữ lớn để đục lỗ tín hiệu key punch vào các tấm thẻ, và để soát lại, dùng máy kiểm phiếu có hình thể tương tự. Mỗi tấm thẻ là một dòng mệnh lệnh và có 80 cột tương ứng với 80 ô trên mȁu thảo chương. Mỗi cột trên thẻ gồm 12 “ô” hay khoảng trống nhỏ, mỗi “ô” có thể được đục lỗ hay không để tương ứng với 1 hay zero trong hệ thống nhị phân, và mỗi chuỗi số gồm 1 hay zero kế tiếp nhau đó biểu diễn một ký tự riêng biệt. Thí dụ A là 000001000001. Bị giới hạn sáu ký tự là dài nhất, tôi đặt tên chương trình là LINCAL viết tắt của Line Calculations. LINCAL gồm khoảng 2,000 dòng, số thẻ đã đục lỗ đựng vừa vặn chiếc hộp chữ nhật hãng sản xuất dùng chứa thẻ mới gửi tới cho khách hàng. Tôi gửi submit hộp thẻ vào phòng máy điện toán để in ra thành chữ để soát lại và sửa lại công trình của mình một lần cuối. Nhưng đấy chỉ là bước đầu tiên – rất nhỏ – của chặng đường gian nan trước mặt giai đoạn biên dịch compile chuyển mệnh lệnh nguồn thành chương trình thừa hành executable chứa trong máy điện toán mà sau này người sử dụng có thể gọi ra, cung cấp dữ kiện cần thiết, và sai khiến tính toán và in ra kết quả. Mỗi lần làm biên dịch, nếu chương trình nguồn không bị máy điện toán “chê” vì lỗi cú pháp không đúng quy luật FORTRAN thì chương trình thừa hành mới được tạo ra và thay thế chương trình cũ, và tôi dùng dữ kiện mȁu chạy thử. Trong năm, sáu lần chạy thử đầu tiên, LINCAL không những không cho kết quả mong muốn mà còn gây ra chuyện khác thường. Thí dụ, chương trình đi vào một “vòng vô tận” khiến máy điện toán chạy hoài không ngừng, và điều hành viên gọi điện thoại cho tôi than phiền trước khi “giết” chấm dứt ngang chương trình. Cólần chương trình in ra một đống giấy cao cả thước mà trang nào trang nấy y hệt nhau, tôi lại bị một phen mắng vốn. Mỗi lần chương trình chạy sai là một dịp học hỏi Tôi tham khảo ý kiến Dennis, tra cứu sách vở, và tìm cách viết mệnh lệnh hiệu quả hơn. Rồi mang hộp thẻ vào phòng xuyên phiếu, kiếm một chiếc máy đục lỗ không ai dùng, và mò mȁm đánh lại thẻ. Từ nhỏ đến lớn, tôi chưa bao giờ dùng máy chữ nên khi muốn đánh một ký tự, phải lần mò tìm ký tự ấy trên bàn chữ rồi dùng ngón tay trỏ bàn tay phải mổ cò một phát. Nếu đánh sai một ký tự thì phải bỏ nguyên tấm thẻ đang đục lỗ và làm lại từ đầu. Trong ba tuần lễ đầu tiên tập tễnh làm thảo chương viên, tôi ăn dầm nằm dề ở phòng xuyên phiếu trước cặp mắt lạnh lùng khó chịu của chị trưởng ban trạc tứ tuần mà chưa có chồng. Một hôm, đến cuối ngày mà vȁn chưa hoàn tất các sửa đổi cần thiết, tôi để hộp thẻ ở phòng xuyên phiếu và ngȁu nhiên ra về một lượt với chị ta. Trong thang máy, chị trêu tôi, nhưng nghiêm mặt không cười, “Hình như anh thích làm công việc xuyên phiếu? Anh cứ nộp đơn, chúng tôi đang cần người.” Tôi bối rối đỏ mặt tía tai, đau như hoạn, nhưng đành cắn răng cười trừ. Hôm sau, tôi mượn cuốn sách chỉ dȁn cách dùng máy xuyên phiếu, để ra một buổi đọc từ đầu đến cuối, và ghi ra những điều cần nhớ trước khi tiếp tục sửa thẻ. Nhờ vậy, tôi biết rõ cách dùng máy, và ngón tay mổ cò tuy vȁn chậm rì nhưng không còn đánh sai tùm lum như trước. Một tháng trôi qua và sau khoảng hai chục lần biên dịch và chạy thử, chương trình LINCAL của tôi hoạt động đúng như tôi và Dennis đã hoạch định. Chúng tôi mang bản in vào văn phòng ông Howard trình bày kết quả dự án. Ông sếp là kỹ sư thuộc thế hệ cũ và không biết nhiều về thảo chương hay máy điện toán. Ông chăm chú nghe tôi trình bày phương pháp tính toán, gật gù đồng ý với tôi về dự định in kết quả thành một tập tài liệu để phổ biến đến các kỹ sư trong công ty, và cuối cùng hỏi một câu tưởng chừng như không ăn nhập gì tới vấn đề đang thảo luận, “Vậy chớ ngày tháng chạy máy ở đâu mà không thấy?” “Tại sao cần đến ngày tháng?” cả tôi và Dennis cùng kêu lên. “Các bạn trẻ ơi,” ông Howard mỉm cười sờ râu mép và chậm rãi giải thích, “Giả sử trong tương lai, hàng năm các anh cập nhật hóa dữ kiện về các đường dây truyền điện và chạy lại chương trình, nếu không in ngày tháng trên bản in, làm sao biết được bản nào lỗi thời cần liệng bỏ và bản nào hiện hành cần giữ lại?” “Hôm nay ông làm chúng tôi thành hai thằng trán trẹt!” Dennis thẹn thùng chấp nhận lời khuyên giản dị mà thực tiễn của ông sếp. Dennis có óc hoạt kê khá đặc biệt, danh từ “thằng trán trẹt” bắt nguồn từ câu chuyện khôi hài anh hay kể, Một anh kỹ sư tự cho mình thông thái và biết nhiều và mỗi lần nghe ai nói điều gì mà anh không biết, xòe tay vỗ mạnh vào trán, “Ừ, dễ quá; có thế mà không nghĩ ra!” Tháng lại ngày qua, trán anh bị vỗ dài dài và trẹt hẳn ra, và anh ta có tên “thằng trán trẹt.”* * * Trong khi tôi và Dennis thảo chương và sử dụng máy điện toán vì nhu cầu tính toán kỹ thuật, sở Khai thác Dữ kiện Data Processing có nhiệm vụ trông nom và điều hành máy điện toán và phụ trách các công việc tính toán và kiểm kê “quan trọng hơn,” liên quan trực tiếp đến tiền bạc như hồ sơ tài chánh và kế toán, hóa đơn tính tiền khách hàng, lương bổng nhân viên, hàng hóa tồn kho, Nhân viên khai thác dữ kiện chuyên môn có ba bậc Thấp nhất là điều hành viên, kế đến là thảo chương viên, và sau cùng là phân tích viên. Hai nhóm sau dùng COBOL từ "COmmon Business-Oriented Language" nghĩa là ngôn ngữ thông dụng chuyên dùng cho ngành kinh doanh để thảo chương. Các nhà điện toán chuyên nghiệp đó xem tôi là “người ngoài” được đặc ân dùng máy ké. Khi tiếp nhận yêu cầu chạy máy của tôi, các điều hành viên tỏ tuồng mặt khinh khỉnh như chĩnh mắm thối. Để chạy một chương trình FORTRAN bình thường, điều hành viên chỉ cần nạp thẻ vào máy đọc thẻ và đánh mệnh lệnh vào bàn chữ trên console, READ Đọc. Sau khi máy đọc thẻ đọc xong, chương trình sẽ điều khiển máy điện toán làm việc và in ra những điều họ cần làm trên console – không cần suy nghĩ gì cả. Dennis hay nói đùa với tôi, “Bọn điều hành viên ngồi không trong phòng máy lạnh và không vận dụng trí não nên bộ óc dần dần teo lại bằng hạt cát. Thật tội nghiệp!” Một hôm tôi mang thẻ vào phòng máy điện toán và chờ mãi không thấy bóng dáng điều hành viên nào. Nóng lòng chạy chương trình để có kết quả sớm, tôi nhìn quanh nhìn quất không thấy ai bèn hối hả nạp thẻ vào máy đọc và bước tới console đánh vào mệnh lệnh READ. Sau đó, tôi lẳng lặng mang thẻ về bàn giấy mình và để chương trình chạy trong máy như thường lệ. Hai hôm sau, tôi và Dennis bị ông Wally phó tổng giám đốc gọi lên văn phòng. Trên tay cầm một xấp hồ sơ, ông rầy tôi, “Tôi vừa nhận được đơn kiện của IBEW Nghiệp đoàn Công nhân Ngành Điện Quốc tế. Họ phàn nàn ngày hôm kia anh đã vi phạm khế ước giữa nghiệp đoàn và công ty vì đã tự tiện dùng console trong phòng máy điện toán. Chỉ điều hành viên thuộc nghiệp đoàn mới có quyền đụng tới nó, anh biết chưa?” và ông quay sang trách Dennis, “Ba Hoa chưa quen làm việc với bọn Khai thác Dữ kiện, tại sao anh không chỉ cho anh ta biết?” “Thưa bác, việc đó do lỗi cháu¸ không dính dáng đến Dennis. Cháu đợi lâu quá mà điều hành viên biến đâu mất hết nên đã tự ý sai khiến máy đọc thẻ đọc vào máy điện toán,” tôi nhận lỗi và thuật lại sự việc. “Tôi bỏ qua cho anh lần này, nhưng luật lệ là luật lệ, khiếu nại của nghiệp đoàn sẽ ghi vào hồ sơ cá nhân của anh.” Về lại bàn giấy của mình, tôi hỏi Dennis, “Anh nghĩ tôi còn gặp rắc rối nữa không?” “Hiện tại, ngoài việc bị mấy tên điều hành viên cotton-picking nghênh nghênh nhìn, anh sẽ không bị phiền phức gì cả. Vì sếp Howard không ưa bọn nghiệp đoàn,” Dennis lắc đầu;“cotton-picking” là từ ngữ chung dùng để chỉ trích với ý không bằng lòng, trong trường hợp này có thể hiểu là “ba láp” hay “cà chớn.” “Nhưng sau này thì sao?” tôi chưa yên lòng. “Anh có tên trong sổ đen’ của nghiệp đoàn; vài chục năm nữa, cơ hội trở thành tổng giám đốc công ty của kỹ sư Ba Hoa’ sẽ kém đi một phần nào vì khi tuyển chọn, hội đồng quản trị có thể xét tới vụ này. Nhưng anh đừng lo; chúng mình không phải là dân đếm hạt đậu kế toán viên và cũng không là luật sư ăn gian nói dối, làm sao lên được danh sách ứng viên đó?” Ước gì từ phòng xuyên phiếu đến phòng máy điện toán, tôi chỉ đối phó với máy móc vô tri vô giác mà thôi. Con người sao lắt léo quá! Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 19 tháng Năm, 2021Giả Ngu Tìm Bọ Lễ Lao động, ngày thứ Hai đầu tiên của tháng Chín, được gọi là "ngày kết thúc không chính thức của mùa hè"; đó là lúc các sinh hoạt mùa hè chấm dứt. Ở Công ty Tiện ích Montana-Dakota MDU, cũng như các hãng xưởng khác, nhiều nhân viên đưa gia đình đi nghỉ hè trong hai tuần trước cuối tuần dài lễ Lao động, vì sau đó học trò đi học lại và từ đây cho đến cuối năm khó tìm được thời gian cả gia đình thong thả để cùng đi chơi xa. Đó cũng là lúc các môn thể thao mùa thu bắt đầu. Trong sở, anh bạn Charlie cầm tập giấy đi quanh “tuyển mộ” cầu thủ lập đội bóng chuyền; MDU sẽ bảo trợ đội bóng, nghĩa là trả các món lệ phí và tiền mua áo may-ô cầu thủ. Đội bóng chơi vào tối thứ Tư trong 14 tuần lễ ở sân vận động trong nhà của thành phố. Sự khuyến dụ của Charlie khiến tôi xiêu lòng xăm mình ghi danh vào đội, mặc dù trước đây chưa từng chơi môn thể thao này. Tối đầu tiên là buổi tập thử, huấn luyện viên kiêm trọng tài chỉ dȁn luật chơi và kỹ thuật giao banh, đỡ banh, nâng banh, đập banh, Mười hai tuần lễ kế tiếp là các buổi đấu thử giữa các đội cùng một league một hạng; đội MDU xếp vào hạng C là hạng thấp nhất. Hai ngày cuối tuần của tuần lễ cuối thì đấu tranh giải giành cúp vô địch có khắc tên cầu thủ toàn đội. Đội MDU thường đấu thua, người đóng góp nhiều nhất vào cuộc thất bại là tôi. Mặc dù các bạn đồng đội có tinh thần cạnh tranh muốn thắng, không ai trách cứ hay than phiền khi tôi đỡ banh trượt hay đánh banh văng ra ngoài lằn vạch trắng quanh sân. Ngược lại, khi tôi đánh một đường banh tạm được, họ la lên khen, “Good job!” Đánh giỏi!. Khi đội nhà đánh thắng một đường banh, cả bọn xúm lại đưa tay lên cao đánh vào nhau để tự tán dương. Anh bạn Dennis cũng chơi trong đội bóng chuyền MDU. Nếu xếp hạng, tôi đánh dở nhất thì anh đứng thứ nhì. Trong lúc tôi thấp và tay ngắn thường hứng hay đỡ banh hụt thì anh hay bị trọng tài bắt lỗi vì “bưng và ném,” nghĩa là thay vì hứng hay đỡ, anh xòe cả hai bàn tay đón bắt trước khi thảy banh sang phía đối phương. Óc hoạt kê đặc biệt của anh lại được dịp làm việc, anh bào chữa, “Tôi giữ banh trên tay hơi lâu vì tôi là kỹ sư chính hiệu,” và đưa ra câu chuyện khôi hài, Một nhà toán học, một nhà vật lý, và một kỹ sư được giao nhiệm vụ tìm thể tích một quả bóng. Nhà toán học lấy quả bóng đo đường kính rồi tính thể tích. Nhà vật lý nhúng quả bóng vào nước và đo lượng nước bị choán chỗ. Anh kỹ sư cầm trái bóng quay qua trở lại rất lâu. Để tìm số kiểu hàng! Số kiểu hàng kiểu xe, kiểu máy, là số hay ký hiệu đặc thù của một sản phẩm mà nhà sản xuất đặt ra để phân biệt với những sản phẩm khác. Ta có thể dùng số kiểu hàng để lục tìm tính chất của sản phẩm trong mục lục hàng hóa. Sau khi đánh banh, cả hai đội – đội nhà MDU và đội vừa giao đấu luân phiên hàng tuần – kéo nhau sang ba bar phía bên kia đường uống bia, go Dutch chơi theo lối Hòa Lan phần ai nấy trả. Khác với người Việt là tôi khi uống bia thì uống lấy uống để, uống cho nhiều, và nốc một hơi cho mau say, người Mỹ là bạn tôi gọi bia uốngthong thả, ngồi ở bàn mình hay đi quanh gặp người quen nói chuyện rỉ rả, và cả buổi tối chỉ uống một hay hai lon bia. Họ nói chuyện nhỏ nhẹ, không rượu vào lời ra la lối om sòm. Không ai ép bạn mình uống theo kiểu “rượu bất khả ép, ép bất khả từ.” Khi một người cần đi về, anh đứng dậy bye-bye; không ai nài nỉ bắt nán lại. Tôi kể cho các bạn nghe cuộc di tản đổi đời ra khỏi Sài gòn và nói lên tội ác của Việt Cộng và cuộc sống khốn khổ thê lương của đồng bào ở bên nhà. Dennis hãnh diện chỉ tay vào người tôi và đùa bỡn như thường lệ, “Vi Xi VC không hề biết họ đã mất đi một kho tàng vô giá. Ba Hoa ra đi, chỉ số IQ trung bình của các đại học ở Sài gòn giảm xuống còn 50 phần trăm.” IQ intelligence quotient là chỉ số thông minh của mỗi cá nhân và đo bằng phương pháp trắc nghiệm. IQ từ 85 đến 115 là mức thông minh trung bình, 130 trở lên là rất thông minh, và trên 145 thuộc hạng thiên tài. Dennis đang hướng dȁn tôi thảo chương FORTRAN, và tôi được ông sếp để cho tự do làm dự án mình thích nên quyết tâm vừa làm việc vừa học ngành khoa học điện toán tới nơi tới chốn. Dennis có bằng cao học về ngành học mới mẻ này; anh còn giữ sách giáo khoa và cả sách bài giải dành cho giảng viên vì ngày học cao học anh làm phụ giảng cho giáo sư. Tôi mượn sách của Dennis, ra công học hỏi, và nhờ anh giảng giải khi có điều gì không hiểu rõ. Nếu cần sách điện toán áp dụng mà anh không có, tôi xuất quỹ MDU đặt mua, và sách là tài sản của công ty, trên nguyên tắc nhân viên ai cũng có thể lấy dùng. Cần sách nghiên cứu thì tôi ra thư viện thành phố hay lên thư viện trường đại học cộng đồng hỏi mượn. Hai thư viện này nằm trong Hệ thống Liên-Thư viện nên nếu không có sách, họ mượn thư viện khác trong vùng và cho phép tôi giữ 30 ngày và có thể gia hạn. Khi mượn được cuốn sách hay, ngoài giờ làm việc tôi vào sở photocopy và đóng lại thành tập để lưu giữ. Xem ra MDU cung cấp đầy đủ phương tiện cho tôi học hỏi, không học thật . . . phí của đời. Khi nói chuyện với nhau, tôi và Dennis hay dùng thuật ngữ điện toán và danh từ kỹ thuật đặc biệt ít người hiểu. Giờ nghỉ giải lao hai đứa xuống câu lạc bộ cùng với nhau. Một hôm, một anh kỹ sư cơ khí thuộc nha Sản xuất xuống trễ, các bàn kia hết chỗ nên đến ngồi chung bàn với chúng tôi. Mười phút sau, anh ta cầm ly cà-phê đứng dậy, “Nghe các anh nói thứ tiếng gì quái dị, tôi trở lại bàn giấy ngồi uống cà-phê một mình dễ chịu hơn.” Đến mùa xuân 1977, tôi nghĩ mình đã hấp thu hết kiến thức điện toán của Dennis và có thể trội hơn vì tôi giỏi toán hơn, có căn bản khoa học vững chắc hơn, và do tính cầu toàn, chịu khó học hỏi tường tận hơn anh. Lúc này kỹ thuật thảo chương của tôi đã vững vàng và được Dennis và ông sếp tin tưởng và giao phó nhiệm vụ nghiên cứu và viết các chương trình FORTRAN mới cho nha Điều hành Hệ thống Điện. Công tác bao gồm việc thiết lập phương pháp khảo sát, thu thập dữ kiện chạy máy, viết cẩm nang cho người sử dụng, và phổ biến đến các nhân viên kỹ thuật trong công thu năm ấy, công ty mua chiếc máy điện toán Prime 400 dành riêng cho Tổng nha Kỹ thuật Điện và đặt dưới quyền điều hành của Dennis và tôi. Prime là một loại máy điện toán thu nhỏ có khả năng tính toán cao và cho phép nhiều người sử dụng cùng một lúc. Người sử dụng điều khiển trực tiếp máy Prime bằng cách đánh mệnh lệnh vào bàn chữ của trạm điện toán computer terminal. Trạm này là một dụng cụ điện tử dùng ống tia âm cực cathode ray tube chiếu mệnh lệnh của người sử dụng lên màn hình và nối liền với máy Prime bằng dây cáp chạy ngầm trên trần hay dưới sàn nhà. Hệ thống Prime hoạt động được phần lớn là nhờ sự phát minh ra những chương trình điện toán gọi là “text editor.” Chương trình này cho phép người sử dụng tạo ra và sửa đổi các văn bản chứa ký tự và mệnh lệnh điện toán. Mỗi hàng trong văn bản tương ứng với một thẻ điện toán trước đây dùng cho những máy điện toán lớn như hệ thống Honeywell của MDU. Text editor khiến cho thẻ điện toán, máy xuyên phiếu, và xuyên phiếu viên trở thành chuyện quá khứ và đang chìm vào quên lảng. Bộ phận dĩa dùng để lưu trữ dữ kiện của máy Prime chiếm nguyên một chiếc tủ thấp nhưng chỉ có khả năng chứa 80 MB megabyte, tức là một triệu byte. Một flash drive USB bằng ngón tay cái hiện nay có thể chứa 32, 64, hay 128 GB gigabyte, tức là một tỉ byte, tức là 400, 800, hay 1,600 lần bộ phận dĩa tân kỳ năm 1977. Được tùy nghi sử dụng máy Prime, tôi không mơ ước gì hơn. Tôi có quyền chạy máy bất cứ lúc nào, áp dụng vào dự án tùy ý chọn làm, và học hỏi những điều mình thích. Nhớ nghề dạy học cũ, mỗi chiều thứ Năm tôi mở lớp dạy các bạn kỹ sư thảo chương FORTRAN và luyện thi kỹ sư chuyên nghiệp Professional Engineer để đăng bộ hành nghề ở tiểu bang. Tôi say mê làm việc và học hỏi bất kể giờ giấc. Tôi mà vào sở ban đêm hay cuối tuần, dù chỉ định bụng ghé một lát rồi về nhà, nhưng lúc nào cũng mải mê làm việc quên giờ về, Quỳnh Châu phải điện thoại vào gọi về đi ngủ hay ăn cơm. Đôi khi nàng nhắc khéo, “Chông mê làm việc quá, cu Mạc quên mặt ba rán chịu đó.” Dần dần tôi nổi tiếng về khả năng kỹ thuật và thảo chương trong Tổ hợp Điện lực Vùng Điện lực Trung-Lục địa gọi tắt là MAPP mà MDU là hội viên. Tổ hợp này gồm cơ quan trong bảy tiểu bang Hoa kỳ và hai tỉnh Gia Nã Đại hợp thành với mục đích giúp hội viên mua bán điện với nhau và giúp đỡ lȁn nhau. Các công ty hội viên đều có máy Prime và chia xẻ chương trình FORTRAN và dữ kiện để khảo sát hệ thống điện của toàn tổ kỹ thuật của MAPP kháo nhau tôi có biệt tài debug có một không hai. Trong ngôn ngữ điện toán, “debug” là tìm chỗ sai trong một chương trình điện toán, do chữ “bug” là con bọ, là chỗ sai. Thảo chương là một nghệ thuật theo đó thảo chương viên theo quy tắc định sẵn ghép các mệnh lệnh với nhau theo ý mình để hoàn tất một mục đích tính toán nào đó. Khi chương trình hoàn thành và chạy không đúng, giai đoạn debug gian nan bắt đầu. Thảo chương viên vò đầu bứt tai, đọc đi đọc lại từng dòng mệnh lệnh, và thử lui thử tới với các cách sửa đổi khác nhau. Phần lớn các cuộc debug mất nhiều thì giờ nhưng rồi cũng thành công, và chương trình được sửa đổi thích ứng để sử dụng; nhưng có một số chương trình không bao giờ “chạy.” Là người chịu trách nhiệm về sự hoạt động của máy Prime, tôi và Dennis thường phải nghe các bạn đồng sự than phiền khi chương trình “cứng đầu” không chịu chạy cho đúng theo ý họ. Họ cả quyết “đáng lẽ nó phải làm . . .” nhưng máy điện toán không làm thế hay “chuyện . . . không thể xảy ra” nhưng thực sự chuyện đó đã xảy ra. Đôi khi họ quy lỗi cho máy điện toán như “ký ức có đốm hư” hay “chương trình biên dịch chạy sai.” Chương trình biên dịch compiler chuyển mệnh lệnh FORTRAN nguồn thành ra chương trình thừa hành mà người sử dụng có thể gọi ra và sai khiến làm việc. Khi giúp bạn debug một chương trình, tôi bỏ ngoài tai lời bàn Mao Tôn Cương của tác giả, lần theo từng dòng mệnh lệnh một, kiên nhȁn kiểm chứng lại nhiệm vụ của mỗi mệnh lệnh, và nhất là không “giả sử” nó “phải” làm như thế này, hay như thế kia. Vì tuy với cùng một mệnh lệnh FORTRAN, máy của International Business Machines IBM, Honeywell, và Prime có cơ cấu khác nhau có thể đưa tới kết quả khác nhau. Đồng thời, tôi quên đi định kiến của tác giả. Anh bạn thuộc nằm lòng phương pháp tính toán lý thuyết, trong đầu đã nhất định cho rằng máy điện toán chạy sai, và không hình dung ra rằng máy điện toán chỉ là vật vô tri vô giác không hiểu lý luận hợp lý của anh mà chỉ thi hành lệnh anh phán dạy. Do đó, cách debug của tôi là play dumb giả ngu như máy điện toán. Tưởng tượng mình là người máy, thiên lôi chỉ đâu đánh đó, và để cho mệnh lệnh của chương trình đưa đẩy từng bước một tới chỗ sai. Cái “bug” tìm thấy thường là một lỗi lầm đơn giản, ai cũng có thể thấy nhưng không ai ngờ đến. Mỗi lần debug thành công, tôi về nhà hãnh diện khoe phép thuật “giả ngu tìm bọ” của mình với Quỳnh Châu. Nàng cười lắc đầu, không đồng ý, “Cách debug của anh dùng hai đức tính cần thiết. Một là kiên nhȁn, bền chí như Thomas Alva Edison. Hai là tưởng tượng, một khí giới tối quan trọng của nhà khoa học; Albert Einstein nói, Tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức.’ Chồng em là một khoa học gia đích thực, quên rồi sao?” Được vợ khen, tôi thích chí nhưng ngoài mặt vờ khiêm nhường giễu cợt, “Em dạy quá nhời lời làm chồng hỉnh mũi to bành sư đây nè.” Và tôi yêu nàng vô cùng. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 7 tháng Bảy, 2021Vẫn Chiến Đấu Âm Thầm Đêm thứ Tư là đêm đánh bóng chuyền của tôi và sáu, bảy anh bạn cùng sở. Sau khi đánh banh, chúng tôi và đội vừa giao đấu kéo nhau sang ba bar The Covered Wagon bên kia đường uống bia. “Covered wagon” là chiếc xe ngựa bốn bánh có mái che kín, và “The Covered Wagon” là tên cuốn phim cao bồi câm phát hành năm 1923 thuật lại cuộc hành trình qua vùng Miền Tây Xưa từ Kansas đến Oregon của một nhóm người đi khai hoang. Họ đi qua sa mạc nóng bỏng và núi tuyết lạnh lẽo, chịu đói khát, và thường xuyên lo sợ thổ dân Da đỏ tấn công. Ở The Covered Wagon, tôi kể cho bạn nghe cuộc di tản ra khỏi Sài gòn và giải bày tại sao tôi bỏ xứ ra đi. Tôi sinh ra ở Quảng Bình nằm phía bắc vĩ tuyến 17. Sau khi Hiệp định Genève chia đôi đất nước được ký kết vào tháng Bảy năm 1954, tôi theo mẹ di cư vào Nam; chúng tôi “bỏ phiếu bằng chân” để tránh nạn Cộng sản. Ông tôi ở lại với quê hương và bị chính quyền phát động phong trào “cải cách ruộng đất” đấu tố, giết chết, và cướp đoạt tài sản. Số nạn nhân như ông tôi lên tới hơn nửa triệu người; họ mất mạng mất của vì bị gán cho tội “địa chủ,” tức là sở hữu chủ một đám ruộng hay một mảnh vườn. Đồng thời, với khẩu hiệu “Trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận rễ,” Việt Cộng quyết tâm triệt hạ ra khỏi xã hội bốn “giai cấp” chúng liệt vào hạng kẻ thù trí thức, buôn bán “phú thương” hay “con buôn”, địa chủ, và nhà giàu “cường hào”. “Giai cấp công nông” nghèo khó vô học còn lại cũng không may mắn gì hơn. Họ không có một mảy may tự do làm người nào cả, ngoài bổn phận tuân theo chỉ thị của “đảng,” tức là một thiểu số lãnh tụ ngu dốt và tàn nhẫn. Sau khi chiếm được miền Nam năm ngoái 1975, Việt Cộng lại dở trò “đánh tư sản mại bản” công khai tra khảo, hành hạ, và cướp bóc những thương gia và gia đình chúng quy tội giàu có. Chúng ra lệnh nhân dân miền Nam đổi tiền, đem tiền cũ Việt nam Cộng hòa “VNCH” đổi lấy tiền Việt Cộng; mỗi gia đình chỉ được đổi một món tiền nhỏ, còn lại bao nhiêu kể như mất bỏ. Trong một ngày, người dân bị cướp hầu hết tiền bạc mồ hôi nước mắt dành dụm cả một đời. Chúng bắt “ngụy quân ngụy quyền” là quân nhân và công chức VNCH đi “học tập cải tạo,” tức là đi lao động khổ sai. Họ ở tù không tội trạng, không tuyên án, và không biết ngày được bạn Mỹ của tôi kinh ngạc, “Sao trên thế giới ngày nay lại có một chính thể gian xảo ác độc đến thế? Làm sao dân chúng sống nổi?” “Không nổi cũng phải sống thôi. Ở Sài gòn, mỗi khu phố được đặt dưới quyền một tên công an khu vực. Nó có quyền xông vào nhà anh bất cứ lúc nào, khám xét bất cứ xó xỉnh nào trong nhà, và tra hỏi anh về bất cứ điều gì. Nó công khai kiểm duyệt thư từ anh gửi đi, mở và đọc trước thư đến, và ra lệnh cho anh viết thư trả lời cho đúng đường lối của đảng.’ Nó có quyền sinh sát tuyệt đối với anh và gia đình.” “Nếu không tuân lệnh hay làm điều gì anh ta không vừa lòng thì sao?” “Nhẹ thì bắt đi học tập,’ tức là đi ở tù không biết ngày về để thuấn nhuần chính sách của đảng.’ Nặng thì đêm khuya công an đến nhà gõ cửa và bắt đem đi; không ai biết đi đâu, sống hay chết.” Charlie và vợ là Judy là đôi bạn đầu tiên và thân nhất của tôi ở Bismarck. Judy dạy Anh văn ở trường trung học Bismarck, trường hai em Lâm và Trọng đang học. Một hôm, sau trận bóng chuyền, anh hỏi tôi, “Anh nghĩ thế nào về Hồ Chí Minh?” “Bọn Việt Cộng thổi phồng ông là bác Hồ vĩ đại’ đáng tôn sùng hơn thần thánh. Nhưng với tôi và phần lớn các người Việt khác, ông là kẻ phạm tội, là kẻ đại gian đại ác lớn nhất trong lịch sử Việt nam,” tôi trả lời ngay. “Nếu có cơ hội vạch mặt ông Hồ, anh dám làm không?” Charlie cười cười. “Bất cứ lúc nào. Nhưng làm sao?” “Judy dạy các lớp 12 và muốn mở rộng tầm kiến thức của học sinh nên định mời anh nói chuyện về ông Hồ để cho học sinh mở mắt ra. Học sinh sinh viên ngày nay mù tịt về tình hình thế giới và ít khi đọc báo hay xem tin tức trên ti-vi – ngoại trừ theo dõi tin tức thể thao. Anh thấy sao?” Tôi hăng hái nhận lời và ra công soạn một bài thuyết trình khá công phu. Tôi tưởng chỉ nói chuyện với lớp Anh văn của Judy, nhưng khi đến trường mới biết cử tọa gồm tất cả các lớp 12. Họ tụ tập trong phòng tập thể dục và khi hết chỗ trên băng ghế dài, ngồi bệt trên sàn xi-măng. Sau khi tôi trình bày tường tận tội ác của Việt Cộng, các học sinh 18, 19 tuổi thay nhau đặt câu hỏi và cho thấy họ không “mù tịt về tình hình thế giới” như Charlie nói. Họ chỉ ngây thơ và xem tự do họ đang thụ hưởng là lẽ dĩ nhiên. Họ tin lời tôi, nhưng “huyền thoại Hồ Chí Minh” do bộ máy tuyên truyền Cộng sản tạo ra không dễ dầu gì mà xua tan. Ông Hồ theo Cộng sản không phải vì lý tưởng cách mạng mà vì miếng cơm manh áo. Ngày còn nhỏ, ông theo học trường Quốc Học Huế, ngôi trường trung học tôi học sáu mươi năm sau. Sau hai năm học lớp 6 và lớp 7, ông bị đuổi học; Việt Cộng khoe ông bị đuổi vì tham gia vào cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế, nhưng thực ra cuộc biểu tình ấy xảy ra trước ngày ông được nhận vào trường đến bốn tháng. Thử làm nghề dạy học tư một thời gian mà không đi tới đâu, ông làm đơn gửi vị toàn quyền người Pháp kể lể công lao của cha ông đối với triều đình Huế và cầu xin đặc ân cho vào học trường Hậu bổ Hà nội là trường đào tạo công chức người Việt cho bộ máy hành chánh thuộc địa. Đơn không được cứu xét vì ông chỉ học chưa hết lớp 7 mà điềukiện nhập học đòi hỏi diplôme tức là bằng Thành chung Trung học đệ nhất cấp thi sau khi hoàn tất chương trình lớp 9. Thất vọng, thất nghiệp, và đói rách, ông Hồ tìm đường sang Pháp tha phương cầu thực bằng cách xin làm việc vặt trên một chiếc thương thuyền để được ăn uống và đi tàu miễn phí. Ông xuống bến tàu Marseille – không tiền, không người quen, và đói lạnh. Thuở ấy, và cho đến ngày nay, đảng Cộng sản Pháp dụ dỗ cảm tình viên bằng cách đón các kẻ lang thang cầu bơ cầu bất ở bến tàu hay ga xe lửa, mang về cho ăn ở, và rủ rê gia nhập đảng. Dĩ nhiên, ông sướng điên lên và chớp ngay lấy cơ hội này. Nhờ bản tính lưu manh nham hiểm và giỏi biến trá, ông được tin cậy và thăng tiến nhanh, đưa sang Nga huấn luyện, và chuyển sang Tàu hoạt động. Phần lịch sử còn lại do Cộng sản viết, không biết chứa bao nhiêu phần trăm sự thực. Một nữ sinh đưa tay chất vấn, “Ông có thể cho thí dụ về sự tàn ác của ông Hồ không?” “Ông Hồ là thủ phạm gây ra những khổ đau dân tộc Việt nam đang gánh chịu. Trên hết, chính ông đã chủ trương và gây ra cuộc chiến Bắc - Nam tương tàn khiến ba triệu rưỡi thường dân và quân nhân hai bên bị hy sinh oan uổng. Kế đó, trong phong trào cải cách ruộng đất,’ có đến nửa triệu người, trong số đó có ông nội tôi, bị thảm sát. Khi quân đội miền Bắc sắp nổi loạn vì vụ này, ông lên đài phát thanh vờ nhỏ vài giọt nước mắt cá sấu và nói mấy câu xin lỗi; thế là . . . huề tiền!” “Sao tôi nghe nói ông Hồ suốt đời sống độc thân hiến mình cho quốc gia dân tộc?” một nam sinh đứng lên hỏi. “Bịp bợm láo khoét là nghề của Cộng sản. Ông Hồ lấy vợ có hôn thú tại Mạc Tư Khoa ở Nga sô, bà này là người Việt và cũng là đảng viên Cộng sản. Ông cũng chính thức có vợ người Tàu khi hoạt động bên Tàu. Trong nước, ông giấu giếm một lô tình nhân và con tư sinh. Là người dâm dục, ông thường ôm hôn hít các cháu gái nhi đồng’ trước công chúng và bí mật tuyển lựa những cháu gái’ trẻ tuổi vừa mắt để phục dịch bác’ – dĩ nhiên phục dịch cả nhu cầu tình dục!” Một buổi tối khác, tôi ngồi uống bia và chuyện trò sau trận bóng chuyền thì một thanh niên trạc ba mươi tuổi, hình dạng cao lớn, và có bộ râu quai nón từ bàn bên cạnh bước sang bắt tay tôi và tự giới thiệu là Doug tên tắt của Douglas, “Tôi nghe lóm chuyện của anh và thấy thích thú nên mạo muội sang làm quen.” “Nếu tôi không lầm thì anh là cựu chiến binh Việt nam?” tôi đoán chừng. “Đúng vậy,” Doug buồn bã nói, “Vào thời chiến tranh, hàng ngày giới truyền thông thiên tả thân Cộng ở Hoa kỳ nhét vào đầu dân chúng những hình ảnh chết chóc khủng khiếp và quy lỗi hoàn toàn cho quân đội Mỹ. Ngay cả chiến binh Mỹ cũng mù mờ không hiểu rõ mục tiêu của cuộc chiến. Năm 1973, họ trở về nước thì bị nhiều kẻ quá khích phỉ nhổ và mắng nhiếc là kẻ sát nhân giết đàn bà và trẻ em. Tôi muốn biết ý kiến của anh về sự tham chiến của Hoa kỳ ở Việt nam.” Doug cho biết anh sang Việt nam năm 1964, phục vụ trong một đơn vị bộ binh đóng ở An Lỗ nằm giữa Huế và Quảng Trị. Cuộc tấn công Tết Mậu Thân 1968 của Việt Cộng xảy ra vào cuối nhiệm kỳ thứ hai của anh, anh chiến đấu sát cánh một đơn vị Thủy quân Lục chiến VNCH để táichiếm Thành Nội Huế. Cuối năm 1968, anh về Mỹ, giải ngũ, đi học ngành kỹ sư kỹ nghệ, và hiện làm việc cho một công ty chế biến thực phẩm. Tôi nhìn thẳng vào mắt anh, “Ba chục triệu dân miền Nam đã chịu ơn các anh sâu nặng. Gần 60 ngàn chiến binh đã nằm xuống; các anh đã đổ máu cho chúng tôi và cho chúng tôi sống trong tự do và no ấm thêm 20 năm. Nghĩa cử và hy sinh của các anh cao đẹp biết bao!” “Tôi tưởng người Việt oán hận chúng tôi về những tàn phá, đổ nát, và chết chóc chứ,” mắt anh sáng lên. “Ai cũng biết ông Hồ và Cộng sản miền Bắc hung ác hiếu chiến xua quân vào để chiếm trọn miền Nam. Người Mỹ giúp chúng tôi vì chúng tôi không đủ sức chống lại, và sau một thời hạn nào đó vì quyền lợi của nước Mỹ, các anh phải rút lui thôi. Dĩ nhiên cũng có một số người Việt kiếm cách đổ lỗi và oán hận Hoa kỳ đã bỏ rơi bạn đồng minh,’ trong khi chính họ là những kẻ trốn chạy trước tiên.” “Vậy mà bao năm nay tôi trăn trở dằn vặt vì đã tham dự vào cuộc chiến đȁm máu ấy,” anh khẩn khoản, “Mời anh đến giải thích với bạn tôi. Bọn tôi ai nấy đều mắc phải PTSD và mong là khi nhận ra sự thực, sẽ gột rửa bớt ám ảnh và mặc cảm dồn nén trong lòng mà trở lại bình thường.” PTSD viết tắt của Post-Traumatic Stress Disorder là hội chứng tâm thần xảy ra cho người đã trải qua hay chứng kiến các biến cố quá khổ đau. Anh Doug giới thiệu tôi với sáu, bảy cựu chiến binh ăn mặc lôi thôi lếch thếch, râu tóc bờm xờm, và chúng tôi vừa thảo luận vừa uống bia ăn thịt nướng ở sân sau nhà anh. Ban đầu họ thắc mắc nghi ngờ và gay gắt chất vấn, nhưng tôi cứ theo sự thực mà giải thích và trả lời. Khi chia tay, từng người đến bắt tay tôi, “Cám ơn anh. Bây giờ, tôi bắt đầu thấy hãnh diện là cựu chiến binh Việt nam.” “Không, chính tôi mới là người thọ ân các anh,” tôi nghiêm mặt đáp. Cuộc chiến đấu chống Cộng âm thầm của tôi tiếp tục với những lần nói chuyện với các trường trung học và nhóm cựu chiến binh khác. Tiếng lành đồn xa, tôi được mời thuyết trình ở trường đại học cộng đồng, trường đại học điều dưỡng, bệnh viện Cựu Chiến binh tại North Dakota, và các buổi lễ nhà thờ sáng Chủ Nhật. Cuối tháng Giêng 1976, chi hội North Dakota của Veterans of Foreign Wars VFW nhóm họp đại hội thường niên tại Bismarck và mời tôi dự dạ tiệc kết thúc đại hội với tư cách diễn giả chính. VFW là hội những cựu chiến binh phục vụ trong các cuộc chiến tranh, hành quân, và viễn chinh trên lãnh thổ, hải phận, hay không phận ngoại quốc. Cử tọa gồm trên 300 người. Họ đứng dậy vỗ tay hoan hô khi tôi kết thúc bài diễn văn, Cám ơn VFW cho tôi cơ hội phơi bày cho thế giới biết những khổ đau và áp bức trên quê hương Việt nam yêu dấu và tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những cựu chiến binh Việt nam. Đêm hôm đó, tôi ngủ mơ thấy mình biến thành Superman bay về Việt nam giúp khôi phục đất nước. Sáng ra tỉnh dậy thấy mặt mình ướt sũng nước mắt. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 23 tháng Sáu, 2021Lý Lẽ của Trái Tim Trong bữa cơm chiều, tôi cười nửa miệng thuật lại mẩu chuyện mới nghe kể trên sở về một tình huống oái oăm, Một thiếu phụ trung niên buồn rầu than thở, “Chồng tôi bước vào cuộc khủng hoảng tuổi trung niên. Anh bỏ tôi và các con để đi theo một người đàn ông.” Không chú ý đến khía cạnh hài hước của chuyện “bỏ vợ theo trai,” Quỳnh Châu chăm chăm nhìn nghiêng vào mặt tôi rồi reo lên, “Ha ha, chồng để tóc dài làm hippie và thò cái đuôi chuột sau ót kìa. Mẹ nói người có đuôi chuột có đông em, kết giao rộng rãi, và rất bướng bỉnh. Đúng y chang!” “Má cu Mạc hôm nay bị hồn ma bóng quế nào nhập vào người hay sao mà trổ nghề làm thầy bói sáng,” tôi trêu nàng. “Có gì đâu, em thấy tóc anh dài cần hớt tóc cho thợ có việc làm,” nàng cười hóm hỉnh. Tôi tiếp tục đùa với Quỳnh Châu, “Anh cần lấy hẹn với cô thợ hớt tóc. Không biết lúc nào cô ấy mới rảnh?” “Chồng có thời khóa biểu của cổ mà,” nàng cười khúc khích vì “cô ấy” chính là nàng, “Còn có một cô thợ hớt tóc nhà nghề, đẹp tuyệt vời, khéo tay hay miệng, và sẵn sàng o bế mái tóc còn . . . xanh của chồng. Có cần em hẹn giùm không?” “Em muốn nói chị Mỹ?” tôi bỗng chột dạ hỏi lại. “Dạ phải, chỉ lo cho anh còn hơn lo cho anh Mỹ, tội ghê! Chỉ cho em bộ kéo cắt và xén tóc chuyên nghiệp và dạy em cắt tóc cho anh đó,” nàng vô tình không thấy vẻ mặt nao nao của tôi. Vợ chồng ông Mỹ đến định cư ở Bismarck trước chúng tôi và là hai người Việt đầu tiên tôi gặp ở thành phố này. Họ tình cờ gặp Quỳnh Châu ở Đại học Cộng đồng Bismarck khi đưa cậu con trai lớn đi ghi danh học chương trình tiền y khoa. Ông chồng trạc tứ tuần dáng béo tốt cục mịch, nói giọng Nam rổn rảng, và làm ca đêm cho xưởng dây chuyền lắp ráp của hãng chế tạo máy cày. Ông phách lối hỗn xược khiến cho những người Việt khác ở đây hầu như ai cũng đã đòi đánh ông một vài lần. Bà vợ – chị Mỹ – trông trẻ trung hơn chồng, khuôn mặt phúc hậu, và dáng người thon thon. Chị thân thiết với Quỳnh Châu và đối xử với nàng như chị với em. Chị chỉ dạy nàng từng li từng tí từ cách nấu ăn, đến nuôi con, may vá, mua sắm, Chị làm thợ uốn tóc, trong tuần nghỉ ngày thứ Năm, lại nhà tôi chơi cả ngày, và cùng Quỳnh Châu nấu đồ ăn cho tôi đi làm về ăn. Chị căn dặn Quỳnh Châu, “Em rán nấu thật ngon cho ảnh ăn. Hồi đi học, ảnh ăn uống thất thường bữa có bữa không, tội lắm.” Bốn năm sau, cậu con trai lớn tốt nghiệp Cử nhân Sinh học và gửi đơn xin học nhiều trường y khoa, nhưng không được trường nào nhận. Sau đó, ông bà Mỹ rời Bismarck lúc nào không hè năm 1985, tôi có dịp viếng thăm nam California, vào một siêu thị Á đông, và bỗng nghe ai gọi tên sau lưng. Tôi luống cuống thấy chị Mỹ đi một mình và thấy chị xinh đẹp hơn bao giờ hết. Chị đưa mắt hỏi, “Ủa, Châu đâu mà không thấy?” “Châu ở nhà, tôi đi công tác ở bắc California rồi ghé xuống đây,” tôi bối rối trả lời. “Anh lúng túng như thợ vụng mất kim, ngó y hịch như hai lần đầu tiên gặp tui – lần trước ở nhà Yên Đổ, và lần sau ở Bismarck,” chị cười chúm chím. “Ông Mỹ khỏe không?” tôi dớn dác nhìn quanh. “Tui không biết. Tụi tui đã chia tay, anh đi đường anh, tôi đường tôi,” chị thân mật nắm tay tôi, “Anh Mỹ ra đi và Châu không có đây, hai đứa mình không còn lý do gì để tiếp tục đóng vai người dưng kẻ lạ. Ba Hoa nhớ nhỏ này là Nguyệt Thu nghen.” Phải, “chị Mỹ” tên là Nguyệt Thu và quen thân với tôi từ mùa thu 1966, thời gian khó khăn nhất đời tôi, một sinh viên chưa tròn 18 tuổi. Tôi mất học bổng du học Gia Nã Đại vì ngày học trung học nghịch ngợm phá phách khiến ông hiệu trưởng đem lòng thù vặt và báo cáo dối là học bạ giả. Vào kỳ thi cuối khóa đệ nhất niên kỹ sư điện, tôi lại bị giáo sư trù, cho điểm zero khiến phải ở lại lớp. Cha nổi giận cấm tôi về nhà và không cho mẹ vào Sài gòn thăm. Suốt mùa hè, tôi sống một mình trên căn gác trọ nóng hâm hấp, tâm hồn bị đầu độc bởi triết lý “cuộc đời phi lý và buồn nôn” trong tiểu thuyết hiện sinh bọn sinh viên chúng tôi ngưỡng mộ một cách mù quáng, và hàng đêm tôi ray rứt tự hỏi nên tình nguyện đi lính hay kết liễu đời mình. Đến mùa thu, tôi lạc lõng bước vào lớp học, bạn cũ đã lên lớp trên, và bạn mới nhìn tôi với đôi mắt khinh bỉ, không muốn dính dáng với đứa học đúp do tiếng Pháp “double”. Rồi tôi vớ được thằng Thu; nó mới vào học lớp Công chánh, và chúng tôi học chung các môn khoa học cơ bản. Năm kia nó học đệ nhất lớp 12 ở Ban Mê Thuột cùng với tôi và học rất kém, vậy mà nay trúng tuyển vào trường Công chánh! Sau giờ Hỏi bài giờ học hàng tuần giáo sư ra tay sát hạch khả năng của sinh viên đầu tiên, các bạn Công chánh cầm chắc thằng Thu đậu vào là nhờ tiền bạc đút lót hay thần thế “con ông cháu cha” nên không làm bạn với nó. Tôi và nó, hai thằng bạn cũ trước không chơi thân bây giờ đi đâu cũng có nhau. Một hôm thằng Thu kêu tôi đến nhà nó chơi; đó là một biệt thự lớn trên đường Yên Đổ xe chạy một chiều. Tôi bấm chuông gọi cổng không thấy ai ra nên đứng gọi tên Thu ơi ới. Một thiếu phụ độ hai mươi bảy, hai mươi tám tuổi, tóc xõa ngang vai, và dáng dấp thanh nhã ra mở cổng. Tôi đâm ra lúng túng, “Dạ Thu có nhà không ạ?” “Thu đứng trước mắt Ba Hoa, không thấy sao?” nàng vừa nói vừa cười, trong khi tôi ngơ ngác nhìn quanh không thấy ai khác. “Nếu Thu bận việc hay đi vắng, hôm khác tôi trở lại vậy,” tôi nói lúng búng. “Thu ra mở cửa là Nguyệt Thu, con gái. Cậu em Xuân Thu có chút việc ra ngoài, nhờ mình đón và mời Ba Hoa vào nhà,” nàng cười giải thích. Lần đầu tiên chuyện trò tay đôi với một người đàn bà lịch thiệp và sang trọng, tôi khớp quá nên ngồi trong phòng khách mà thần trí lãng đãng tận đâu đâu. Nguyệt Thu khôn khéo và thân thiện gợi chuyện cho tôi nói, và khi Thu bạn tôi về tới nhà, tôi đã thấy thoải mái và thích thú mời nàng ngồi nán đó, tôi thường kiếm cớ đến nhà thằng Thu và lại mong nó không có nhà để gặp riêng Nguyệt Thu. Ngôi biệt thự của cha mẹ nàng, nhưng tôi chưa bao giờ gặp ông bà. Nàng ở đó với hai cậu con trai, đứa lớn chín tuổi và đứa nhỏ sáu tuổi. Nàng là người đầu tiên và duy nhất mà tôi không ngại ngùng trút hết nỗi niềm tâm sự. Nàng an ủy khuyên lơn và dẫn dắt tôi vượt qua những khó khăn và bế tắc trong tâm tư. Khoan dung và khuyến lệ như một người mẹ, và âu yếm và ngọt ngào như một người tình. Nhờ Nguyệt Thu, tôi dần dần phục hồi niềm vui ham sống, thiết tha hơn với bài vở, và đến kỳ thi cuối khóa, đậu hạng nhì lên đệ nhị niên. Ai cũng đoán trước được kết quả thi cử của thằng Thu Không những nó hỏng không được lên lớp, mà còn không đủ điểm để được học lại nên bị xoọc-ti lát “sortie laterale” tiếng Pháp là ra trường ngang, tức là bị đuổi học. Buổi tối ngày có kết quả thi, tôi và thằng Thu đưa nhau ra bến xe đường Phan văn Hùm ở Ngã Sáu Sài gòn, ngồi ghế thấp quán nhậu vỉa hè, và gọi khô mực uống bia Larue chai lớn. Lần đầu tiên tôi uống bia thả cửa, ly mày ly tao và cụng ly như người lớn, và cũng là lần đầu tiên tôi say rượu. Hai thằng lảo đảo dìu nhau về nhà nó, ngủ chung giường trong phòng nó. Nửa đêm, tôi thức dậy đi tiểu rồi an nhiên về phòng ngủ tiếp. Chìm đắm trong hơi men, tôi chập chờn mơ thấy mình ôm hôn say đắm cô học trò dạy kèm thương yêu mà không dám ngỏ lời và được đáp ứng tận tình. Khoảng năm giờ sáng, tôi trở mình thức giấc và ngạc nhiên cùng tột thấy Nguyệt Thu nằm trong vòng tay mình. Nàng ngước mắt nhìn và dịu dàng mỉm cười, “Nằm đây với Thu mà suốt buổi gọi mãi cô Châu, Ba Hoa thật chung tình.” Tôi sợ hãi nhổm dậy nhìn quanh; thì ra hồi khuya tôi trở về nhầm phòng. Tôi nhảy xuống giường và trên đường về phòng thằng Thu, nhận ra mình đã phạm một tội tày trời khác Căn phòng tôi tưởng là nhà vệ sinh thật ra là phòng chứa đồ cổ quý giá của cha thằng Thu. Tôi mặc vội quần áo và tất tả chạy bay ra đường; hết giờ giới nghiêm, xe cộ bắt đầu nhộn nhịp. Không dè hơn tám năm sau, tôi gặp lại Nguyệt Thu trên đất Mỹ – với ông Mỹ chồng nàng. * * * Tôi và Nguyệt Thu sang tiệm phở gần siêu thị để trò chuyện và ăn trưa. Nàng lấy giấy lau đũa muỗng cho tôi, gọi thức ăn cho cả hai đứa, và săn sóc tôi như vợ lo cho chồng. Nàng đang làm chủ một tiệm uốn tóc lớn có sáu, bảy người thợ và sống một mình trong ngôi biệt thự nhỏ gần bãi biển ở Santa Monica. Nói về chồng cũ, nàng không tỏ một thoáng oán hờn, “Anh Mỹ là con một trong một gia đình giàu có bậc nhất Sài gòn, cha ảnh và ông già Thu là đôi bạn thân. Lúc tụi Thu còn nhỏ, hai ông già uống rượu với nhau và hứa chuyện lứa đôi của hai đứa. Năm ảnh vừa được mười tám tuổi, ông già ảnh giục làm đám cưới gấp, nói cưới vợphải cưới liền tay, chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha. Thu cũng tin vậy, nhưng sau này mới biết mình lầm.” “Ông Mỹ có tật bệnh bẩm sinh nào đó hay sao?” tôi chồm tới hỏi. “Từ hồi nhỏ ảnh đã tỏ ra là tình dục đồng giới, ông già biết vậy nên bắt ảnh lấy vợ sớm, hy vọng nhờ lập gia đình sinh con đẻ cái, ảnh sẽ thành bình thường như người khác. Nhưng chỉ qua được mấy năm đầu, thời gian mà Thu sinh ra hai thằng con lớn, rồi thôi. Sau ngày cha mẹ ảnh mất, ảnh gặp Quân Bảo là một ca sĩ trẻ tuổi đẹp trai mới vào nghề, bị tiếng sét ái tình,’ và bỏ Thu và con đi theo chàng ta. Thu hết nước nói, đem hai con về sống với ba má.” Nhớ lại ngày cũ, tôi thấy ân hận, “Ngày đó Thu khổ sở như vậy mà tôi ích kỷ, chỉ lo than thở chuyện mình, và vô tình chồng chất thêm gánh nặng vào lòng Thu. Chắc Thu rầu lắm?” “Không đâu. Nhờ Ba Hoa tâm sự mà Thu thấy nỗi khổ của mình dịu bớt, và những lời khuyên nhủ Ba Hoa, Thu đem áp dụng lại cho chính mình để chống chõi với những đêm dài trằn trọc; càng ngày càng thấy bớt buồn phiền. Rồi mối tình cảm sâu đậm đối với Ba Hoa đến với Thu lúc nào không hay,” nàng long lanh nước mắt. “Sao hai người tái hợp, gương vỡ lại lành lần đầu?” tôi hỏi để tránh né điều khó nghĩ. “Khi tiền bạc của cha mẹ để lại cạn kiệt, ảnh bị Quân Bảo bỏ rơi vì không cung ứng nổi nếp sống xa hoa của chàng ta. Ảnh trở về với Thu, khóc lóc xin được tha thứ, và thề bán mạng sẽ sửa đổi tính tình.’ Không đành để ảnh nghèo khổ và vì không muốn con mình thiếu tình thương của cha, Thu chấp nhận cho ảnh một cơ hội thứ hai. Kết quả là thằng út ra đời và gia đình tương đối yên ổn một thời gian, như Ba Hoa thấy ở Bismarck.” Tôi còn thắc mắc cuối cùng, “Thu dọn khỏi North Dakota lúc nào mà không ai hay? Sao hai người xa nhau lần nữa?” “Đầu năm 1980, ảnh đột nhiên nghỉ việc và năn nỉ Thu dọn về nam California nắng ấm có đông người Việt sinh sống. Về đây, sau khi nhà cửa và công ăn việc làm ổn định, ảnh rút hết tiền trong trương mục ngân hàng và dọn ra sống với Quân Bảo. Bấy giờ Thu mới biết chàng ca sĩ từ Việt nam vượt biên sang tới California cả năm trước.” “Thằng cha Mỹ này thật không khá nổi!” “Dầu sao, Thu không giận ảnh. Ảnh phụ rảy Thu để theo đuổi tình yêu, người kia là đàn ông hay đàn bà không thành vấn đề. Khi yêu, người ta đặt người mình yêu lên trên hết. Ba Hoa nhớ không, ngày xưa hai đứa mình hay chia xẻ với nhau câu nói của Blaise Pascal 1623 – 1662, Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết gì cả.’ Riêng Thu, gần hai mươi năm qua ấp ủ một mối tình nồng thắm và cố hết sức mình để người Thu yêu được sung sướng và hạnh phúc.” Chúng tôi chia tay nhau với nụ hôn phớt nhẹ. Nụ hôn thực sự đầu tiên và cũng là cuối cùng của một cuộc tình không thành sự thật. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 14 tháng Bảy, 2021Thà Chịu Tiếng Lầm Đường Tôi viết thư hàng tuần cho thằng Công; vợ chồng bạn tôi và hai cô con gái nhỏ sống ở Dallas thuộc tiểu bang Texas. Mỗi tối Chủ Nhật nó gọi điện thoại cho tôi cà kê dê ngỗng đủ thứ chuyện, từ chuyện cũ ở Việt nam đến việc đi học, đi làm, và sống trên đất Mỹ. Chúng tôi liên lạc thường xuyên và thân thiết đến nỗi thỉnh thoảng Quỳnh Châu gí tay vào trán tôi nói đùa, “Đàn ông con trai gì mà viết thư cho nhau cứ như là đôi tình nhân . . . đực rựa. May mà em biết rành chồng và anh Công, nếu không con mụ sư tử Hà Đông này sẽ nổi ghen lên cho ôông dôông méo mặt luôn.” Mười bốn năm trước, tôi và thằng Công ngồi cạnh nhau ở dãy bàn đầu lớp đệ tam lớp 10 B3 trường Quốc Học Huế. Hai thằng đều học giỏi, nhất là giỏi toán, và giờ ra chơi nắm tay nhau đi dưới hàng cây cao trong sân trường luận anh hùng Mấy thằng có tiếng học giỏi khác, cao tay lắm là cao thủ hạng ba. Không có hạng nhất hay hạng nhì vì, mặc dù hai đứa chúng tôi ngấm ngầm thi đua học gạo, không thể nói mèo nào cắn mỉu nào! Buổi chiều sau giờ học, tôi theo nó lên chùa học đạo với thầy; nó say mê học hỏi Phật pháp, tôi ưa chất vấn thầy làm sao đạo Phật áp dụng vào đời. Mùa hè năm 1963, gia đình tôi dọn vào Ban Mê Thuột ở với cha. Tôi và thằng Công viết thư cho nhau hàng tuần. Mở đầu thư bằng tiếng gọi trìu mến, “Công thương,” tôi tường thuật sinh hoạt thường ngày ở thành phố Buồn Muôn Thuở Bụi Mù Trời và trong lớp nam nữ học chung, điều mà Huế không có. Nó kể lại những lần về làng đưa con bồ ra đụn cát ngồi bên nhau trò chuyện và lên chùa xin thầy cho thế phát quy y nhưng thầy không cho, biểu phải sống ngoài đời phục vụ thế gian. Tuy nhiên, phần chính của bức thư dày cộm là đề toán đưa ra để đố bạn và bài giải cho các bài toán đố trước, chẳng khác gì các nhà toán học Âu châu đầu thế kỷ thứ 18 trao đổi thư từ thách thức nhau giải toán. Sau khi đậu Tú tài II, chúng tôi thi vào trường Cao đẳng Điện học vì theo lời thằng Công, “trong các ngành học, kỹ sư điện là ngành dùng toán cao nhất,” và hai thằng đều trúng tuyển. Ngay trong buổi học đầu tiên là giờ Giải tích, môn toán chính với thầy Thế, thằng Công đứng lên tranh luận với thầy về ý niệm căn bản trong chương đầu tiên của tập cua thầy cho, và tôi làm tài hay đứng ra bênh vực nó khiến thầy nổi giận. Suốt mấy năm học với thầy, tôi học ngày học đêm học chết bỏ vì giờ Hỏi bài sát hạch hàng tuần nào cũng bị thầy chiếu cố tận tình với những bài toán khó nhất, trong lúc thằng Công tiếp tục lý luận tay đôi với thầy và được thầy nể nang. Thầy đã biên soạn và ấn hành cuốn Giải tích Đệ nhị Niên, cuốn sách Việt ngữ đầu tiên và duy nhất về toán áp dụng cao cấp và là niềm hãnh diện sâu xa của tác giả. Cuối năm học thứ hai, thầy gặp riêng nó, “Tôi định tái bản cuốn Giải tích nếu hè này anh giúp tôi hiệu đính; chúng mình sẽ đứng tên chung.” “Cám ơn thầy mời con cộng tác, nhưng con mắc diễn dịch kinh Pháp Hoa nên không thể nhận lời,” thằng Công trả lời không do lúc thằng Công nghiên cứu đạo Phật, tôi và một thằng bạn thân khác là thằng Song nghiền ngȁm các tác phẩm triết lý và say sưa đọc tiểu thuyết hiện sinh. Trong những buổi tối nhâm nhi cà-phê bít tất tiệm Tàu gần nhà trọ tôi, ba ông cụ non gân cổ cãi nhau về chân lý cuộc đời như ba nhà triết gia thực sự. Thằng Công dạy kèm ăn ở luôn trong nhà Bách Hoa, con đầu lòng của một gia đình giàu có và có thế lực. Mẹ nàng đã phỏng vấn nhiều sinh viên mới kén được thằng Công; nó được cơm bưng nước rót, cho ở riêng trong căn phòng khang trang, và được đối xử như con rể tương lai. Thằng Song nói nó tự nguyện đút đầu vào vòng dây thòng lọng nhung của bà mẹ và tham phú phụ bần bỏ rơi con bồ cũ ngoài Huế. Bách Hoa có thể yêu nó, nhưng nàng lãng mạn mộng mơ, hay ghen tuông vô cớ, và thích ra oai chỉ huy sai khiến nó. Mỗi lần nghe nó phàn nàn, thằng Song chỉ cái cột nhà lớn giữa tiệm cười khà khà, “Tối ngày mày ăn xong rờ l… con Bách Hoa, rồi con c… mày to bằng cái cột nhà, làm sao mày mặc quần?” Sau khi thằng Công tốt nghiệp, đám cưới linh đình cử hành trước khi nó lên đường đi du học, học cao học điện toán ở trường Đại học Missouri-Rolla ở Rolla thuộc tiểu bang Missouri. Vài tháng sau, bà mẹ vợ gửi Bách Hoa sang sống với nó, và cô con gái đầu lòng sinh ra trước khi nó tốt nghiệp cao học. Sau đó, vợ chồng nó dọn về Dallas. Nó làm việc cho nha Nghiên cứu và Phát triển của công ty Texas Instruments, một hãng điện tử lớn vào bậc nhất thế giới, nhưng phần lớn thì giờ xách cặp đi học tiến sĩ ở Southern Methodist University là một đại học tư, nổi tiếng của Texas, và học phí rất cao. * * * Quỳnh Châu thường nhắc chuyện năm ngoái 1975 Hai tuần sau khi chúng tôi từ đảo Guam đến trại tỵ nạn Trại Pendleton, tôi nhận được bức thư dài của thằng Công kèm theo tờ giấy bạc một trăm đô la. Cầm trên tay món tiền đầu tiên có được trên đất Mỹ, tôi cảm động khôn xiết vì không những một miếng khi đói bằng một gói khi no, mà một trăm đô la là món tiền lớn đối với một sinh viên mới ra trường, vừa đi học vừa đi làm nuôi vợ con như bạn tôi. Phương chi nó còn phải lo cho gia đình người anh lớn và gia đình bà mẹ vợ đang ở trong trại tỵ nạn Đồn Chaffee chờ ngày ra Dallas định cư. Trong các cuộc điện đàm, không phải lúc nào tôi cũng đồng ý với thằng Công. Thí dụ, lần nó kể kế hoạch xây chùa ở Dallas, “Tau vay tiền nhà băng để mua nhà làm chùa. Sau này, Phật tử sẽ đóng góp để sửa sang thành nơi thờ phụng.” “Sao mày phải đứng mũi chịu sào để vay tiền?” “Phật tử ai cũng đã mua nhà và có mortgage phải trả góp hàng tháng. Tau chưa có nhà nên lãnh chuyện nớ,” nó thản nhiên trả lời; “mortgage” là văn tự vay tiền để mua nhà, bao giờ trả góp hết nợ thì nhà mới về tay mình. “Sao lạ vậy kìa? Chưa có nhà thì lo mua nhà cho mình trước, lẽ nào nai lưng vác ngà voi, lãnh nợ cho thiên hạ?” “Nếu ai cũng ích kỷ như mi thì khi mô mới có chùa để thờ Phật?” C, CPU trước hết phải cộng A và B, lấy kết quả tìm thấy cộng với C, và rồi đem kết quả cuối cùng gán cho X. CPU mỗi lúc chỉ có thể làm một việc; ba công việc nhỏ ấy phải làm tuần tự, việc trước xong mới đến việc sau. Dataflow là phương pháp tạo ra một chương trình điện toán để phân chia mỗi phép tính thành một số công việc nhỏ mà nhiều CPU khác nhau của máy siêu điện toán có thể thực hiện cùng một lúc. Mùa hè 1978 kế tiếp, tôi lại xuống thăm thằng Công. Một tối tôi vừa nói chuyện vừa giúp nó duyệt lãm bài thuyết trình về Dataflow hôm sau nó trình bày với hội đồng quản trị Texas Instruments. Trong một công ty tư, hội đồng quản trị là ủy ban tối cao có quyền bổ nhiệm tổng giám đốc và có nhiệm vụ hoạch định đường lối điều hành và chính sách dài hạn của công ty. Tối hôm sau, không nghe nó đề cập tới cuộc họp ban ngày, tôi dọ hỏi, “Hôm nay thuyết trình ra sao? Sao mày là kỹ sư nghiên cứu mà lại được vinh dự mời ra hội đồng quản trị?”“Tàm tạm được,” nó uể oải trả lời, “Bọn hắn trả tiền cho tau đi học PhD tiến sĩ cốt để dùng luận án Dataflow của tau. Chừ bọn hắn cần biết chắc chắn dự án có khả thi hay không trước khi chấp thuận ngân sách để chế tạo và tung ra thị trường.” “Rồi mày nói sao?” “Dĩ nhiên là thực hiện được, nhưng tau đang bận chuyện riêng nên không có thì giờ phát triển hay đóng góp thêm. Bọn hắn làm chi thì làm, tau không hứa hẹn chi hết.” “Sao mày bỏ qua cơ hội bằng vàng như vậy?” tôi trợn mắt nhìn nó. “Tau đang viết sách chứng tỏ Phật giáo không những là tôn giáo dân chủ hoàn hảo mà còn là triết lý vô cùng khoa học. Thì giờ mô mà lo chuyện bao đồng?” Tôi lặng người nhưng cố vớt vát, “Hay mày để ra vài ba ngày viết các chi tiết kỹ thuật về Dataflow ra cho tao?” “Để làm chi?” “Tao đi thuê luật sư lấy bằng sáng chế. Cầm bằng sáng chế trong tay là mình giàu to, thằng IBM không mua thì thằng Hewlett-Packard hay thằng khác cũng giành mua. Nó không chế để bán thì cũng mua cất giữ cho thằng khác khỏi chế. Sau đó, mày khỏi cần đi làm, tao có đủ tiền cho mày tu học.” “Đừng xúi tau vướng vào Tam Chướng – Tham Sân Si, ba điều trở ngại cho việc cởi bỏ oan nghiệt.” “Chính mày mới là Sân Si – giận và ngu tối. Riêng về Tham thì đây không phải là tham lam lấy của người, kéo nhà người khác về làm chuồng heo như người Việt, mà tối đa hóa lợi nhuận’ theo thuyết kinh tế của Adam Smith,” tôi nói lớn tiếng. Adam Smith 1723 – 1790 là nhà kinh tế và triết gia người Tô Cách Lan được xem là cha đẻ của kinh tế học và chủ nghĩa tư bản. Thằng Công cười mỉa. “Kinh tế tư bản khiến người giàu càng giàu hơn, kẻ nghèo càng nghèo thêm?” “Mày lầm rồi! Khi mọi người được hưởng lợi nhuận do công sức mình làm ra, cái Tham ấy là động lực khiến họ làm việc hăng say, cố gắng phát minh sản phẩm tân kỳ và hữu ích, và không ngừng cải tiến phương cách làm việc để có hiệu quả hơn và sản phẩm tốt và rẻ hơn. Nhờ đó, người nghèo cũng được hưởng lợi ích và mức sống họ cao hơn.” Trở về đề nghị của mình, tôi cố gắng một lần cuối, “Bỏ qua chuyện lợi danh, hoàn tất công trình nghiên cứu là đóng góp kiến thức mới cho nhân loại và giúp cải thiện đời sống của mọi người, giàu cũng như nghèo.” “Tau không màng thế sự; mi là Phật tử lầm đường, đừng ép tau tơ vương vào cõi trần tục,” thằng Công nói chắc như đinh đóng cột. Tôi cảm phục thằng Công ở chỗ nó hết lòng tôn sùng đạo Phật, say mê Phật pháp, và không màng lợi danh. Nhưng tôi thà chịu tiếng Phật tử lầm đường còn hơn lẩn tránh trách nhiệm đóng góp cho đời, cho Chúng sinh của nhà khoa học. Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 28 tháng Bảy, 2021Còn Đáng Mặt Đàn Ông Mỗi tối thứ Sáu tôi và Quỳnh Châu dành trọn thì giờ cho nhau và cho Mạc sau cả tuần lễ đầu tắt mặt tối chạy đua với đồng hồ. Buổi chiều tôi đi làm chuồn về sớm và giúp nàng tắm rửa, mang quần áo đẹp, và sửa soạn cho Mạc đi chơi. Bắt đầu buổi tối “ra phố,” chúng tôi đi kéo ghế, tức là đi ăn tiệm. Vào tiệm ăn, rổ trẻ con của Mạc đặt nằm trên ghế và chiếm một chỗ như người lớn; tôi vừa ăn vừa đút thức ăn trẻ con mang từ nhà theo cho bé. Ăn xong, chúng tôi vào thương xá và đặt Mạc vào xe đẩy trẻ con đẩy đi loanh quanh xem hàng hóa bày bán đến khi bé buồn ngủ bắt đầu quấy. Hôm nay bữa ăn chiều có thêm thằng Sang em kế tôi. Nó đã dọn nhà ra ở riêng, và thỉnh thoảng bị cha gọi điện thoại sai làm những việc mấy đứa nhỏ ở nhà không làm được đúng hơn là thoái thác được. Có thêm thằng Sang, không khí trở nên náo hoạt hẳn lên. Nó kêu bia uống tì tì và gọi món ăn mắt tiền nhất trong thực đơn vì, “Lâu lâu mới được ăn chùa của anh Ba Hoa, phải ăn cho đáng đồng tiền bát gạo,” và huyên thiên kể chuyện khôi hài để chọc cười. Nó hỏi tôi, “Anh còn nhớ thằng Xương thời mình đi giang hồ và ở lậu trong Đại học xá Minh Mạng không?” “Cái anh chàng Xương chuyên chơi trò ở trần mặc quần xà lỏn đứng trước cửa đại học xá ngắm nữ sinh trường Fraternité trường Bác Ái đi học về ấy à? Bây giờ nó ở đâu?” “Nó ở vùng nam California, mới liên lạc với tui hơn một tuần nay,” nó quay sang Quỳnh Châu, “Hồi đó tui chơi thân với hắn và nói mãi hắn chẳng thèm nghe nên một hôm tui tìm thêm hai đứa bạn khác, nhất định cho hắn một vố nhớ đời. Tụi tui đợi đến giờ . . . cao điểm, nghĩa là lúc các cô đi qua đông nhất, mới ra tay cưỡng bách hắn thoát y, nói nôm na là tuột quần hắn!” Quỳnh Châu cười khúc khích, “Làm gì mà phải cần đến ba tay vai u thịt bắp?” “Lưng quần xà lỏn luồn dây thun nên kéo tuột xuống dễ ợt. Tuy nhiên, tụi tui tính chuyện chắc ăn Hai đứa đứng hai bên cùng kéo xuống một lúc. Đánh mau, đánh mạnh, hắn không kịp trở tay,” thằng Sang rán nín cười. “Còn người thứ ba?” “Thằng đó rình sau lưng, thủ sẵn que củi, và đợi quần tụt xuống thì đút ngay que củi vào khoảng trống chính giữa. Thằng Xương lẹ tay cách mấy cũng không sao kéo quần lên kịp, đành phô trương của quý’ cho các cô Fraternité chiêm ngưỡng.” Tôi chợt nhớ ra và hỏi thằng Sang, “Thằng Xương chơi với mày từ thuở nhà mình ở Tuy Hòa, nó là cháu gọi bác Hoàng chánh án bằng cậu em mẹ, phải không?” “Đúng vậy,” nó giải thích với Quỳnh Châu, “Ông chánh án thân với ông già mình, và anh Sơn con đầu của ông ta là kỹ sư công chánh học cùng với anh Ba Hoa.” “Mày đến không hẳn để thăm tụi tao mà còn thừa lệnh ông già?” tôi nghi ngờ hỏi nó.“Anh đoán trúng chóc, tui tới để truyền thánh chỉ’! Thằng Xương di tản sang đây với gia đình ông Hoàng, và nhờ hắn liên lạc được với tui mà ông chánh án biết số điện thoại của cha. Ông ta gọi năn nỉ ỉ ôi lạy lục cha nhờ anh tìm địa chỉ của anh Sơn bên Pháp. Cha đồng ý và ra lệnh cho anh làm việc đó. Đó, nhiệm vụ của tui tới đây là hết,” thằng Sang cười khì khì. Cha và bác Hoàng cùng trang lứa và làm bạn với nhau từ ngày còn bé ngoài quê Quảng Bình. Lớn lên, cha vào quân đội, bác làm công chức. Bác có nhiều hoài bão và lần hồi tiến thân bằng đường học hành. Ban ngày đi làm, ban đêm cắm cúi học, bác đậu tú tài, sau đó ghi tên học luật, nhờ người lấy cua về nhà học, và cuối cùng đậu bằng cử nhân luật và được bổ nhiệm làm chánh án tỉnh Phú Yên vài năm trước khi cha về cầm đầu tỉnh. Năm đệ nhất niên kỹ sư điện, tôi học chung các môn khoa học cơ bản với thằng Sơn. Tuy mang tiếng “quê nhà” ở Tuy Hòa Phú Yên, mãi đến mùa hè hai năm sau tôi mới về thành phố duyên hải nhỏ bé hiền hòa ấy, không như thằng Sơn đã từng học trung học và quen biết nhiều nữ sinh ở đó. Nó đứng đắn đàng hoàng, ăn nói nhỏ nhẹ, cử chỉ dịu dàng như con gái, và mặt mày trắng trẻo đẹp trai; đúng là mȁu người lý tưởng của các thiếu nữ đương thì. Ngược lại, tôi lấc ca lấc cấc, đi đứng hành động ào ào, và nói năng bất cần đời, mở miệng sặc mùi triết lý hiện sinh “cuộc đời phi lý và buồn nôn” và “con người trong xã hội cần nổi loạn.” Thằng Sơn thường được cha dùng làm mực thước để la mắng tôi. Mùa nghỉ hè đến, tôi nấn ná ở lại Sài gòn chơi với bạn rồi đi xe đò lên Đà Lạt, xuống Nha Trang, và ngao du sơn thủy một vòng rồi mới về nhà. Thằng Sơn thì sau ngày bãi trường vội vàng bay về Tuy Hòa và được bác Hoàng xin cho một chân thông dịch viên làm hè trong căn cứ Không quân Hoa kỳ bên phi trường Đông Tác, căn cứ không quân lớn thứ nhì ở miền Trung, chỉ sau Đà Nẵng. Bác khoe nó giỏi Anh văn và chăm chỉ làm việc phụ giúp lợi tức gia đình. Thế là tôi bị cha hành tội, “Con người ta giỏi giắn, nghỉ hè lo về đi làm kiếm tiền đưa cho cha. Còn con tau đem đồng tiền xương máu của tau đi chơi, chẳng thèm đoái hoài đoái quở tới cha mẹ em út.” Cha hạch tội tôi chỉ đúng một nửa – tội đi chơi. Nhưng “đồng tiền xương máu” thì hoàn toàn sai, vì khoản tiền cha cho phép mẹ gửi vào cho tôi hàng tháng chỉ vừa đủ để trả tiền ăn ở nhà trọ. Mọi chi phí khác như tiền sách vở, cà-phê thuốc lá, xi-nê giải trí, đều do tôi dạy kèm tư gia và dạy trung học tư kiếm được. Tôi tức mình nhưng không dám cãi cha bèn qua phi trường Đông Tác xin làm thông dịch viên. Anh sĩ quan Mỹ phỏng vấn cảm phục khả năng nói tiếng Anh lưu loát và kiến thức rộng rãi của tôi bèn đề nghị tôi làm thông dịch viên cho các sĩ quan cao cấp của bộ chỉ huy căn cứ khi họ chính thức tiếp xúc với giới chức cao cấp phía Việt nam – tức là cha và các viên chức trực thuộc. Trước khi tôi được chấp thuận cho nhận việc, hồ sơ điều tra an ninh đi qua tay cha, và tôi bị cha chửi bới, “Thằng con bất hiếu bất mục không biết bảo vệ danh dự gia đình, coi tên tuổi cha hắn như cục cứt. Tau làm đến chức cầm đầu một tỉnh như ri mà hắn cả gan gia tiếng ác nói cha hắn bắt đi làm sở Mỹ lấy tiền.” Một lần khác, bác Hoàng hãnh diện kể rằng ở Sài gòn thằng Sơn cặp bồ với con gái một vị tướng lãnh trong quân đội. Thế là vô cớ tôi bị cha buộc tội vu vơ,“Con người ta đàng hoàng, trai gái với con ôông nọ ôông tê làm cho cha mẹ nở mặt nở mày. Còn con tau đi theo mấy thứ mèo đàng chó điếm, không xứng đáng với địa vị của tau.” Ít lâu sau, ông tướng thông gia tương lai của bác Hoàng bị giáng chức và buộc phải giải ngũ sau biến động chính trị ở miền Trung giữa thập niên 1960, và sau khi tốt nghiệp kỹ sư công chánh, thằng Sơn được học bổng đi Ý học cao học. Ba năm sau, tôi có dịp gặp và kết thân với ông tướng hồi hưu và nhờ đó quen với Thanh Hiền bồ cũ của thằng Sơn. Trong mấy năm qua, nàng vò võ đợi trông người yêu học thành tài trở về, nhưng chàng bỏ trốn qua Pháp, xoay xở ở lại để khỏi về nước bị đi lính, và chấm dứt mọi thư từ liên lạc. Sau một thời gian, nàng nguôi ngoai, tôi giới thiệu nàng với thằng Hữu bạn cùng lớp với tôi. Thằng này và Thanh Hiền thành ý hợp tâm đầu rồi lấy nhau, và dĩ nhiên tôi làm phù rể cho bạn. * * * Tối Chủ Nhật, tôi điện thoại cho bác Hoàng hỏi cho rõ việc bác nhờ, “Thưa bác, lần cuối bác liên lạc với thằng Sơn lúc nào?” “Mùa hè sau Hiệp định Paris 1973. Lúc đó, hắn mới từ bên Ý qua Paris, viết thư nói đời sống bên Pháp rất khó khăn vì nạn thất nghiệp trầm trọng, kịch liệt đả kích chính phủ Việt nam Cộng hòa, và nói sẽ theo phe bên tê.’ Bác giận run viết thư mắng hắn là đồ ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản, lần đầu tiên bác nặng lời với hắn. Sau đó, bác gái nhiều lần viết thư khuyên giải vỗ về, nhưng hắn biệt tăm biệt tích. Bác đã coi hắn và công lao mấy mươi năm dưỡng dục như bỏ xó.” “Sao bây giờ bác muốn tìm nó?” “Năm ngoái 1975 qua tới Mỹ, nơi đất khách quê người, bác gái đâm ra nhớ thằng con đầu lòng yêu thương nhất nhà và buồn rầu sinh bệnh rề rề hoài. Bác gửi thư về địa chỉ trước của thằng Sơn thì thư trả lại vì không có người nhận. Với lòng thương con bao la của người mẹ, bác gái chỉ cần biết chắc hắn còn sống và mạnh khỏe; còn nếu hắn cương quyết từ cha từ mẹ để theo Cộng sản, bác gái cũng chẳng màng.” Tôi viết thư nhờ một người bạn học cũ là Tuệ hỏi tin tức thằng Sơn. Tuệ lúc trước học chương trình trung học Pháp ở Jean-Jacques Rousseau, thi vào trường Điện cùng năm với tôi và đậu đầu tôi đậu thứ ba, học chung với thằng Sơn hai năm đầu tiên, ra trường kỹ sư điện đậu thủ khoa, và được học bổng của chính phủ Pháp sang Paris học tiến sĩ. Khoảng hai tuần sau, tôi nhận được thư trả lời của Tuệ, thư chứa một số chi tiết khiến tôi bàng hoàng. Ngày thằng Sơn đi xe lửa sang Paris, xuống Ga Lyon ở Quận 12 – không tiền, không người quen. Nó hầu như không tin sự may mắn của mình khi thấy một thiếu phụ Pháp tóc vàng xinh đẹp tênNadine chờ đón ở sân ga. Bọn Việt Cộng ở Pháp và Cộng sản Pháp thường cho người chờ đón mấy kẻ lang thang cù bơ cù bất đói lạnh ở bến tàu và ga xe lửa, mang về cho ăn ở, và khuyến dụ theo chúng. Trước khi trở thành cán bộ Cộng sản, Nadine có một thời đứng đường bán thân nuôi miệng ở khu Pigalle nằm ở ranh giới Quận 9 và Quận 18 và được biết dưới tên Nadine “le trompette” người thổi kèn vì ngón làm tình bằng miệng điệu nghệ của nàng. Nàng đem lòng yêu thương chàng thanh niên da vàng đẹp trai và thông thái, và hai người sống chung trong căn apartment ở khu ngoại ô trung lưu Clichy-sous-Bois. Địa chỉ số 44 đại lộ Madrid ở khu ngoại ô giàu có Neuilly-sur-Seine nó dùng để gửi thư cho bác Hoàng lúc trước là của trụ sở Phái bộ Ngoại giao Việt Cộng. Sau vài lần viết thư cho thằng Sơn về địa chỉ mới ở Clichy-sous-Bois mà không thấy trả lời, bác Hoàng quyết định bay sang Paris tìm nó hỏi cho ra lẽ. Bác đến căn apartment bấm chuông, Nadine ra mở cửa. Thằng Sơn ngồi trong phòng khách, không đứng dậy chào, và cũng chẳng nói chẳng rằng. Bác hỏi bằng tiếng Việt, nó trơ mặt không thèm trả lời. Bác la lớn bằng tiếng Pháp thì Nadine can thiệp, “Ông và Sơn hai người hai bên chiến tuyến, không thể thỏa hiệp và không còn gì để nói. Nếu ông không lập tức ra khỏi đây, tôi sẽ gọi cảnh sát.” Bác Hoàng tức giận đắng cay và trước khi bỏ đi, muốn chửi thằng Sơn một câu cho đã nư. Nhưng không biết chửi làm sao. Chửi tổ tiên nó là tự chửi ông bà mình. Chửi nó “mất dạy bất hiếu” là tự mắng mình không biết dạy con. Rốt cuộc bác nhìn thằng Sơn, chỉ tay vào mặt Nadine, và phun ra câu chửi tục rất . . . Quảng Bình, “Con đầm ni, hắn bú c… mi cho mi sướng điên lên rồi quên cả cha mẹ ông bà.” Sau ngày bác Hoàng đi Pháp về, biết thằng Sơn sống yên ổn, bác gái bớt phiền muộn và dần dần phục hồi sức khỏe. Khoảng ba tháng sau tôi nhận được thư Tuệ, trong đó “moi” đọc là “moa” và “toi” đọc là “toa” tiếng Pháp nghĩa là “tao/tôi” và “mày/anh,” Báo tin cho toi biết là Sơn đã qua đời. Moi đi dự đám tang và có dịp nói chuyện khá lâu với Nadine. Năm 1973, lần đầu tiên Sơn thử lửa đi Marseille công tác cho Việt Cộng với Nadine thì bị tai nạn xe hơi. Nadine không hề hấn gì, nhưng Sơn bị thương rất nặng phải nằm nhà thương khá lâu. Từ đó, Sơn bị bán thân bất toại, không thể tự di chuyển hay săn sóc mình, và mất trên 80 phần trăm khả năng nói. Sơn đã dặn Nadine giữ kín điều này cho đến khi Sơn chết. Dù hèn nhát và phản bội, thằng Sơn cũng còn đáng mặt đàn ông Thà mang tiếng bất hiếu bất nghĩa và chịu đau đớn, còn hơn để cha mẹ phải ưu phiền khổ đau vì mình mà chả đi đến đâu. Không đến nỗi quá tệ! Nguyễn Ngọc Hoa Ngày 11 tháng Tám, 2021
trời cao đất dày